Đại chiến Bắc Âu
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đại chiến Bắc Âu là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm 1715 có thêm vương quốc Phổ và Hannover (Đức). Anh và Hà Lan cũng can dự tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu. Cuộc chiến tranh này còn được gọi là Chiến tranh Bắc Âu lần thứ ba, sau chiến tranh Bắc Âu lần thứ hai (1655 - 1660).[16]
Đại chiến Bắc Âu | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Nga-Thụy Điển và Chiến tranh Ba Lan-Thụy Điển và Chiến tranh Đan Mạch-Thụy Điển | |||||||||
Theo chiều kim đồng hồ từ ở trên cùng bên trái:
| |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
|
| ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
|
| ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Khoảng 200,000:
| Khoảng 200,000: |
Hai nước tranh chấp chính với nhau là Nga và Thụy Điển. Trong 20 năm, hai nước liên tục chiến đấu với nhau để cuối cùng quyết định số phận của cả hai đế quốc. Trong những năm đầu, từ 1700 đến 1709, Nga ở vào thế phòng thủ trong khi chuẩn bị xây dựng tiềm lực quân sự và cải tổ. Sau trận Poltava, Nga lật ngược thế cờ, nhưng hai nước vẫn tiếp tục chiến đấu với nhau: một bên bị vướng víu trong những liên minh bất lực, bên kia muốn rửa hận và phục hồi đế quốc của mình đang tan rã. Cuối cùng vua Thụy Điển Karl XII bị giết tại Na Uy,[17] và Nga đã bắt buộc Thụy Điển phải ký hòa ước để chính thức chấm dứt chiến tranh.