Arleigh Burke (lớp tàu khu trục)
lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường của Hoa Kỳ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Arleigh Burke là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét điện tử thụ động (PESA), đa chức năng SPY-1D. Lớp tàu lấy tên của đô đốc Arleigh Burke, một sĩ quan tàu khu trục người Mỹ trong Thế chiến II, sau này trở thành Trưởng ban Tác chiến Hải quân. Tàu dẫn đầu của lớp, USS Arleigh Burke, được nhập biên chế trong khoảng thời gian mà Arleigh Burke còn sống.
USS Arleigh Burke tại Vịnh Chesapeake năm 2013 | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp Arleigh Burke |
Xưởng đóng tàu |
|
Bên khai thác | Hải quân Hoa Kỳ |
Lớp trước |
|
Lớp sau |
|
Kinh phí | 1.843 tỷ USD mỗi tàu (DDG 114–116, FY2011/12) |
Thời gian đóng tàu | 1988–hiện tại |
Thời gian hoạt động | 1991–hiện tại |
Chế tạo | 7 |
Dự tính | 89 cho đến tháng 4 năm 2020 |
Hoàn thành | 70 |
Đang hoạt động | 70 |
Nghỉ hưu | 0 |
Giữ lại | 0 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Guided missile destroyer |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 66 ft (20 m) |
Mớn nước | 30,5 ft (9,3 m) |
Công suất lắp đặt | 3 × máy phát Allison AG9140 (2.500 kW (3.400 hp) mỗi cái, 440 V) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | Khoảng 30 kn (56 km/h; 35 mph) |
Tầm xa | 4.400 nmi (8.100 km) ở 20 kn (37 km/h; 23 mph) |
Số tàu con và máy bay mang được | 2 × xuồng cao tốc thân cứng - có thể bơm phồng (RHIB) |
Thủy thủ đoàn tối đa | |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Tác chiến điện tử và nghi trang |
|
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo |
|
Hệ thống phóng máy bay |
|
Loại khu trục này mang thiết kế đa nhiệm, có thể hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm tấn công đất liền bằng tên lửa hành trình Tomahawk; tác chiến phòng không (AAW) bằng hệ thống radar AEGIS và tên lửa đất-đối-không; tác chiến chống tàu ngầm (ASW) bằng dàn sonar kéo, tên lửa diệt tàu ngầm, và trực thăng chống ngầm đặc nhiệm; và tác chiến chống hạm nổi (ASuW) bằng các bệ phóng tên lửa chống hạm Harpoon. Sau khi dàn radar quét điện tử AN/SPY-1 và bệ phóng tên lửa các loại trên tàu được nâng cấp, lớp Arleigh Burke đã thể hiện tiềm năng là một hệ thống vũ khí di động có khả năng chống tên lửa đạn đạo và có khả năng diệt vệ tinh. Hệ thống nâng cấp này đang được sử dụng trên 15 tàu cho đến tháng 3 năm 2009. Một số phiên bản của tàu không còn mang dàn sonar kéo, hay ống phóng tên lửa Harpoon. Vỏ tàu và cấu trúc thượng tầng được thiết kế để có mặt cắt radar thấp nhất có thể.[6]
Tàu đầu tiên của lớp được nhập biên chế vào ngày 4 tháng 7 năm 1991. Sau khi tàu cuối cùng của lớp tàu khu trục Spruance, tàu USS Cushing, xuất biên ngày 21 tháng 9 năm 2005, các tàu thuộc lớp Arleigh Burke là loại tàu khu trục duy nhất mà Hải quân Hoa Kỳ còn sử dụng, cho đến khi lớp Zumwalt được đưa vào hoạt động từ năm 2016. Trong số tất cả những loại hạm nổi được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng sau Thế chiến II, Arleigh Burke là tàu có trình sản xuất lâu nhất.[7] Ngoài 62 tàu thuộc lớp này (bao gồm 21 tàu thuộc phiên bản Flight I, 7 tàu thuộc bản Flight II, và 34 tàu thuộc bản Flight IIA) vẫn còn hoạt động đến năm 2016, đã có thêm 42 tàu (phiên bản Flight III) đã được lên kế hoạch sản xuất.
Với chiều dài từ 505 đến 509.5 feet (153.9 đến 155.3 mét), trọng tải choán nước từ 7,230 đến 9,700 tấn, và hệ thống vũ khí gồm 90 tên lửa các loại, lớp Arleigh Burke có thiết kế lớn hơn và mang nhiều hoả lực hơn phần lớn các tàu thuộc loại tàu tuần dương tên lửa dẫn đường.[8][9]