Gheorghe Hagi
From Wikipedia, the free encyclopedia
Gheorghe Hagi (sinh 5 tháng 2 năm 1965 tại Săcele, Constanţa) là một cầu thủ bóng đá người România. Anh nổi tiếng với kĩ tốc độ, kĩ thuật cá nhân điêu luyện và những cú sút xa rất chính xác.
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Gheorghe Hagi | ||
Ngày sinh | 5 tháng 2, 1965 (59 tuổi) | ||
Nơi sinh | Săcele, România | ||
Chiều cao | 1,72 m (5 ft 7+1⁄2 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1978–1980 | Farul Constanţa | ||
1980–1981 | Luceafărul Bucureşti | ||
1981–1982 | Farul Constanţa | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1982–1983 | Farul Constanţa | 18 | (7) |
1983–1987 | Sportul Studenţesc | 107 | (58) |
1987–1990 | Steaua Bucureşti | 97 | (76) |
1990–1992 | Real Madrid | 64 | (16) |
1992–1994 | Brescia | 61 | (14) |
1994–1996 | Barcelona | 36 | (7) |
1996–2001 | Galatasaray | 132 | (59) |
Tổng cộng | 515 | (237) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1983–2000 | România | 125 | (35) |
Sự nghiệp quản lý | |||
Năm | Đội | ||
2001 | România | ||
2003–2004 | Bursaspor | ||
2004–2005 | Galatasaray | ||
2006 | Politehnica Timişoara | ||
2007 | Steaua Bucureşti | ||
2010–2011 | Galatasaray | ||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Anh có biệt danh là "Maradona của vùng Karpat", và người hùng của đất nước anh cũng như đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã 6 lần được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất năm tại Romania, đó là một kỉ lục. Và gần đây anh được bầu là cầu thủ vĩ đại nhất của Romania thế kỷ 20. Anh chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia România ở 3 kỳ World Cup 1990, 1994, 1998 cùng với 3 kỳ Euro 1984, 1986, 2000. Anh có 125 lần khoác áo đội tuyển quốc gia, xếp thứ 2 sau Dorinel Munteanu. Anh là người ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển Romania với 35 bàn thắng. Tháng 11 năm 2003 nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thành lập UEFA, liên đoàn bóng đá Romania đã bầu anh là cầu thủ vàng của Romania 50 năm qua. Anh là một trong số ít cầu thủ chơi cho cả hai câu lạc bộ kình địch của Tây Ban Nha là Real Madrid và FC Barcelona. Tháng 3 năm 2004 anh được Pelé bầu chọn vào danh sách FIFA 100.