Kiến nhảy
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kiến nhảy (danh pháp khoa học: Myrmecia pilosula) là một loài kiến do nhà côn trùng học người Anh Frederick Smith phát hiện, mô tả và đặt tên đầu tiên vào năm 1858.[3] Đây là một loài kiến xuất xứ từ Úc, hiện nay có nhiều nhất ở bang Tasmania và đông nam lục địa Úc. Trong tiếng Anh, loài này được gọi bằng nhiều tên ít nhiều khác nhau: jack jumper, jumping jack, hopper ant, hoặc jumper ant.[4][5][6][7][8]
Thông tin Nhanh Tình trạng bảo tồn, Phân loại khoa học ...
Kiến nhảy | |
---|---|
Hình 1: Một cá thể kiến thợ thuộc loài kiến nhảy. | |
Tình trạng bảo tồn | |
Chưa được đánh giá (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Lớp (class) | Insecta |
Bộ (ordo) | Hymenoptera |
Họ (familia) | Formicidae |
Phân họ (subfamilia) | Myrmeciinae |
Tông (tribus) | Myrmeciini |
Chi (genus) | Myrmecia |
Nhóm loài (species group) | pilosula |
Loài (species) | M. pilosula |
Danh pháp hai phần | |
Myrmecia pilosula F. Smith, 1858 | |
Phân bố các quần thể kiến nhảy ở Úc trên Atlas of Living Australia tháng 5 năm 2015. | |
Danh pháp đồng nghĩa[1][2] | |
|
Đóng
Loài này thường được nhắc đến vì các đặc điểm khá độc đáo:
- Kích thước cơ thể khá lớn: kiến thợ dài tới 14mm (khoảng 0,5 in), còn kiến chúa tới 16 – 20mm (0,63 in).
- Khả năng nhảy xa tới 5 – 7 cm khi kiếm ăn hoặc tự vệ.
- Có bộ nhiễm sắc thể đơn bội nhỏ nhất trong các loài động vật nhân thực hiện nay (n = 1). Do đó nó có tầm quan trọng đáng kể trong cả nghiên cứu in vitro và nghiên cứu thực địa về tổ chức bộ gen.[9]
- Nọc của những con kiến này rất mạnh và nguy hiểm cho người, có thể gây sốc phản vệ, đôi khi gây tử vong ở người mẫn cảm.[10]
- Nhiều người thích nuôi và trao đổi.[11]