Michał Korybut Wiśniowiecki
From Wikipedia, the free encyclopedia
Michał Korybut Wiśniowiecki (tiếng Litva: Mykolas I Kaributas Višnioveckis; còn có tên theo tiếng Anh là Michael I, ngày 31 tháng 5[1], 1640 - 10 tháng 11 năm 1673) là người cai trị của Khối Thịnh vượng chung Ba Lan - Lietuva từ ngày 29 tháng 9 năm 1669 cho đến khi ông qua đời do trúng độc vào năm 1673.
Michael I Michał I | |
---|---|
Vua Michał I trên cổ đep Huân chương Lông cừu vàng, bức vẽ vào thế kỷ thứ 18. | |
Vua Ba Lan Đại vương công Lietuva | |
Tại vị | 19 tháng 6 năm 1669 – 10 tháng 11 năm 1673 |
Đăng quang | 29 tháng 9 năm 1669 |
Tiền nhiệm | Jan II Kazimierz Waza |
Kế nhiệm | John III Sobieski |
Thông tin chung | |
Sinh | (1640-05-31)31 tháng 5 năm 1640 Biały Kamień, Liên bang Ba Lan và Lietuva |
Mất | 10 tháng 11 năm 1673(1673-11-10) (33 tuổi) Lwów, Liên bang Ba Lan và Lietuva |
Phối ngẫu | Eleonora Maria của Áo |
Hoàng tộc | Wiśniowiecki |
Thân phụ | Jeremi Wiśniowiecki |
Thân mẫu | Gryzelda Konstancja Zamoyska |
Tôn giáo | Công giáo La Mã |
Chữ ký |
Ông được bầu lên do ảnh hưởng từ người cha vĩ đại là Thống đốc Ruthenia Jeremi Wiśniowiecki, một lãnh chúa mạnh ở vùng biên giới đã giúp đàn áp quân Cossacks ở miền đông Ba Lan trong cuộc Nổi dậy Khmelnytsky[2]. Mặc dù đã lên ngôi Hoàng đế, nhưng quyền lực thực tế của ông thì bị họ Habsburg khống chế. Suốt cả triều đại của ông là cuộc tranh chấp không ngừng nghỉ giữa các quý tộc thuôc phe ủng hộ Habsburg và phe ủng hộ Pháp[3]. Dưới thời Michal trị vì, Khối thịnh vượng chung ngày càng đi xuống với một loạt các thất bại quân sự trước Ottoman và Cossacks, hậu quả là Hiệp ước Buchach năm 1672 đã đưa Ukraina vào tay Ottoman,
Tương tự như vua tiền nhiệm, Michal qua đời năm 1673 mà không có con hợp pháp sống sót. Cuộc bầu cử của Nghị viện đưa Jan III Sobieski lên kế nhiệm.