Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Trung Quốc
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Trung Quốc (Tiếng Trung: 中国女排) đại diện cho Trung Quốc tham gia các giải thi đấu và giao hữu bóng chuyền quốc tế. Họ là một trong những đội bóng chuyền nữ hàng đầu thế giới, chiến thắng tại giải World Cup bốn lần (năm 1981, 1985, 2003 và 2015), Vô địch Thế giới hai lần (năm 1982, 1986) và 3 lần vô địch tại đấu trường Olympic (năm 1984, năm 2004 và năm 2016). Hiện tại, huấn luyện viên trưởng là Lang Bình.
Hiệp hội | Hiệp hội bóng chuyền Trung Quốc | ||
---|---|---|---|
Liên đoàn | AVC | ||
Huấn luyện viên | Lang Bình | ||
Hạng FIVB | 6 (tính đến ngày 23 tháng 5 năm 2024) | ||
Đồng phục | |||
| |||
Thế vận hội Mùa hè | |||
Sồ lần tham dự | 9 (Lần đầu vào năm 1984) | ||
Kết quả tốt nhất | (1984, 2004, 2016) | ||
Giải vô địch thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 13 (Lần đầu vào năm 1956) | ||
Kết quả tốt nhất | (1982, 1986) | ||
Cúp thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 10 (Lần đầu vào năm 1977) | ||
Kết quả tốt nhất | (1981, 1985, 2003, 2015) | ||
www.volleyball.org.cn (tiếng Trung) | |||
Trung Quốc đã năm lần liên tiếp đạt được danh hiệu cấp Thế giới trong những năm 1980. Mặc dù vậy họ đã không thể duy trì được sự phát triển trong những năm 1990, đội bóng đã vô địch World Cup trong các năm 2003 và 2015, cũng như đã giành được huy chương vàng tại Thế vận hội mùa hè 2004 và Thế vận hội mùa hè 2016.
Về phương diện văn hóa, bóng chuyền nữ là đội tuyển Trung Quốc đầu tiên có thắng lợi trên đấu trường thế giới, và rất quan trọng đầu những năm 1980, khi đội đã có nhiều sự theo dõi ở Trung quốc.