Tăng huyết áp
bệnh mạn tính trong đó áp lực máu đo được ở động mạch tăng cao / From Wikipedia, the free encyclopedia
Tăng huyết áp (viết tắt là: THA) hay còn gọi là cao huyết áp, lên cơn tăng-xông (nguồn gốc: Hypertension trong tiếng Pháp) là một tình trạng bệnh lý mạn tính, trong đó áp lực máu tác dụng lên thành mạch đo được ở động mạch tăng cao.[10] Tăng huyết áp thường không gây ra triệu chứng.[1] Tuy nhiên, tăng huyết áp lâu dài là một yếu tố nguy cơ chính gây tai biến mạch máu não (đột quỵ), bệnh mạch vành, suy tim, rung nhĩ, bệnh động mạch ngoại vi, giảm thị lực, bệnh thận mạn tính và suy giảm trí nhớ.[2][3][4][11] Tăng huyết áp là nguyên nhân chính gây tử vong sớm trên toàn thế giới.[12]
Tăng huyết áp | |
---|---|
Máy đo huyết áp điện từ (trong hình cho thấy huyết áp tâm thu 158mmHg, huyết áp tâm trương 99mmHg và nhịp tim 80 lần/phút. | |
Chuyên khoa | Khoa tim mạch |
Triệu chứng | Không[1] |
Biến chứng | Bệnh động mạch vành, tai biến mạch máu não, suy tim, bệnh động mạch ngoại biên, suy giảm thị lực, bệnh thận mạn tính, suy giảm trí nhớ[2][3][4] |
Nguyên nhân | Thông thường do lối sống và yếu tố di truyền |
Yếu tố nguy cơ | Thiếu ngủ, tăng natri huyết, thừa cân, hút thuốc, uống rượu,[1][5] ô nhiễm không khí[6] |
Phương pháp chẩn đoán | Huyết áp khi nghỉ ngơi: 130/80 hoặc 140/90 mmHg[5][7] |
Điều trị | Thay đổi lối sống, dùng thuốc[8] |
Tần suất | 16–37% (toàn cầu)[5] |
Tử vong | 9,4 triệu/18% (2010)[9] |
Patient UK | Tăng huyết áp |
Tăng huyết áp được phân loại thành tăng huyết áp nguyên phát và tăng huyết áp thứ phát.[5] Khoảng 90–95% số ca là tăng huyết áp nguyên phát, được định nghĩa là dùng để chỉ các trường hợp không xác định được bệnh nguyên gây tăng huyết áp rõ ràng (vô căn).[5][13] Các yếu tố lối sống làm tăng nguy cơ gồm ăn nhiều muối, thừa cân, hút thuốc lá và lạm dụng rượu.[1][5] 5–10% số ca còn lại được phân loại là tăng huyết áp thứ phát, được định nghĩa là tăng huyết áp do nguyên nhân có thể xác định được, chẳng hạn như bệnh thận mạn, hẹp động mạch thận, rối loạn nội tiết hoặc sử dụng thuốc tránh thai.[5]
Huyết áp thường được đo bằng hai chỉ số là: huyết áp tâm thu (systolic, viết tắt là HATT, tương ứng với huyết áp tối đa) và huyết áp tâm trương (diastolic, viết tắt là HATTr, tương ứng với huyết áp tối thiểu).[1] Đối với hầu hết người lớn khi nghỉ ngơi, thông thường HATT nằm trong khoảng 100–130 milimét thủy ngân (mmHg) và HATTr nằm trong khoảng 60–80 mmHg.[7][14] Đối với hầu hết người lớn, tăng huyết áp xuất hiện nếu huyết áp lúc nghỉ ngơi liên tục ở mức lớn hơn hoặc bằng 130/80 hoặc 140/90 mmHg.[5][7] Huyết áp của trẻ em được tính theo tuổi.[15] Theo dõi huyết áp lưu động (Holter huyết áp) trong thời gian 24 giờ có vẻ chính xác hơn so với đo huyết áp tại văn phòng.[5][10]
Thay đổi lối sống và dùng thuốc có thể hạ huyết áp và giảm nguy cơ biến chứng sức khỏe.[8] Thay đổi lối sống bao gồm giảm cân, tập thể dục, giảm lượng muối ăn vào, hạn chế cồn và chế độ ăn uống lành mạnh.[5] Nếu thay đổi lối sống là không đủ, thì thuốc huyết áp sẽ được sử dụng.[8] Dùng phối hợp ba loại thuốc có thể kiểm soát huyết áp ở 90% trường hợp.[5] Việc điều trị thuốc hạ áp ở những người có huyết áp >160/100 mmHg có mối tương quan đến cải thiện tuổi thọ.[16] Tác dụng điều trị huyết áp ở khoảng giữa 130/80 mmHg và 160/100 mmHg ít rõ ràng hơn. Thật vậy, một số tổng quan hệ thống vẫn cho thấy lợi ích[7][17][18] và một số tổng quan hệ thống khác cho thấy lợi ích không rõ ràng.[19][20][21] Tăng huyết áp ảnh hưởng 16 đến 37% dân số trên toàn cầu.[5] Năm 2010, tăng huyết áp được cho là nguyên nhân gây ra 18% tổng số ca tử vong (9,4 triệu người trên toàn cầu).[9]