Thành viên:King of Xavier/Hôn nhân đồng giới
From Wikipedia, the free encyclopedia
Hôn nhân đồng giới, còn được gọi là hôn nhân đồng tính hoặc hôn nhân bình đẳng, là hôn nhân của hai người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội, được thực hiện theo một nghi lễ dân sự hoặc tôn giáo. Có những ghi chép về hôn nhân đồng giới có từ thế kỷ thứ nhất. Trong thời kỳ hiện đại, luật hôn nhân đồng giới đầu tiên có hiệu lực ở Hà Lan vào ngày 1 tháng 4 năm 2001.
Kể từ tháng 1 năm 2021, hôn nhân đồng giới đã được thực hiện hợp pháp và được công nhận ở 29 quốc gia (trên toàn quốc hoặc ở một số khu vực pháp lý):
- Argentina
- Úc
- Áo
- Bỉ
- Brazil
- Canada
- Colombia
- Costa Rica
- Đan Mạch
- Ecuador
- Phần Lan
- Pháp
- Đức
- Iceland
- Ireland
- Luxembourg
- Malta
- Mexico[lower-alpha 1]
- Hà Lan[lower-alpha 2]
- New Zealand[lower-alpha 3]
- Na Uy
- Bồ Đào Nha
- Nam Phi
- Tây Ban Nha
- Thụy Điển
- Đài Loan
- Vương quốc Anh[lower-alpha 4]
- Hoa Kỳ[lower-alpha 5]
- Uruguay
Sự ra đời của hôn nhân đồng giới đã thay đổi theo thẩm quyền, và xuất hiện thông qua sự thay đổi về mặt lập pháp đối với luật hôn nhân, các phán quyết của tòa án dựa trên các bảo đảm hiến pháp về sự bình đẳng, thừa nhận rằng nó được luật hôn nhân hiện hành cho phép,[1] hoặc bằng cách bỏ phiếu phổ thông trực tiếp (thông qua các cuộc trưng cầu dân ý và sáng kiến). Việc công nhận hôn nhân đồng giới được coi là quyền con người, quyền dân sự cũng như là một vấn đề chính trị, xã hội và tôn giáo.[2] Những người ủng hộ nổi bật nhất của hôn nhân đồng giới là các tổ chức nhân quyền và dân quyền cũng như các cộng đồng y tế và khoa học, trong khi những người chống đối nổi bật nhất là các nhóm chính thống tôn giáo.
Các nghiên cứu khoa học cho thấy sức khỏe tài chính, tâm lý và thể chất của những người đồng tính được nâng cao nhờ hôn nhân và con cái của các cặp cha mẹ đồng giới được hưởng lợi từ việc được các cặp đồng tính đã kết hôn nuôi dưỡng trong hôn nhân được pháp luật công nhận và được hỗ trợ bởi các tổ chức xã hội.[3] Nghiên cứu khoa học xã hội chỉ ra rằng việc loại trừ người đồng tính luyến ái khỏi hôn nhân gây kỳ thị và khiến công chúng phân biệt đối xử chống lại họ, với nghiên cứu cũng bác bỏ quan điểm cho rằng nền văn minh hoặc trật tự xã hội khả thi phụ thuộc vào việc hạn chế kết hôn với người dị tính.[4] Hôn nhân đồng giới có thể cung cấp cho những người đồng giới có cam kết các dịch vụ liên quan của chính phủ và đưa ra những yêu cầu về tài chính đối với họ tương đương với yêu cầu của những người trong hôn nhân khác giới, đồng thời mang lại cho họ sự bảo vệ pháp lý như quyền thừa kế và thăm bệnh viện.[5] Sự phản đối hôn nhân đồng tính dựa trên những tuyên bố như đồng tính luyến ái là không tự nhiên và bất bình thường, rằng việc thừa nhận sự kết hợp đồng giới sẽ thúc đẩy đồng tính luyến ái trong xã hội và trẻ em sẽ tốt hơn khi được các cặp vợ chồng khác giới nuôi dưỡng.[6] Những tuyên bố này bị bác bỏ bởi các nghiên cứu khoa học cho thấy rằng đồng tính luyến ái là một biến thể tự nhiên và bình thường trong tính dục của con người, và xu hướng tính dục không phải là một sự lựa chọn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng con cái của các cặp đồng tính cũng giống như con của các cặp khác giới; một số nghiên cứu đã chỉ ra những lợi ích khi được các cặp đồng tính nuôi dưỡng.[7]
Một nghiên cứu về dữ liệu toàn quốc trên khắp Hoa Kỳ từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 12 năm 2015 cho thấy việc thiết lập hôn nhân đồng giới có liên quan đến việc giảm đáng kể tỷ lệ cố gắng tự tử ở trẻ em, với ảnh hưởng tập trung ở trẻ em có xu hướng tính dục thiểu số, dẫn đến số trẻ em định tự tử mỗi năm ở Hoa Kỳ ít hơn khoảng 134.000 trẻ em.[8]