Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (United States Marine Corps) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm phòng vệ vũ trang và tiến công đổ bộ từ phía biển,[4] sử dụng phương tiện vận chuyển của Hải quân Hoa Kỳ để nhanh chóng đưa các lực lượng đặc nhiệm vũ trang hỗn hợp. Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là một trong số 8 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ. Theo cơ cấu lãnh đạo dân sự trong Quân đội Hoa Kỳ thì Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là một phần của Bộ Hải quân Hoa Kỳ,[5][6] thường hoạt động sát cánh bên các lực lượng Hải quân Hoa Kỳ cho các mục đích huấn luyện, vận chuyển và tiếp vận. Tuy nhiên, theo cơ cấu lãnh đạo quân sự thì Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là một quân chủng riêng biệt.[7]
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ | |
---|---|
Con dấu Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ | |
Hoạt động | 10 tháng 11 năm 1775; 248 năm trước (1775-11-10) |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Quân chủng | Thủy quân lục chiến |
Lực lượng | 195.000 hiện dịch(tính đến 2013)[1][2] 40.000 trừ bị(tính đến 2009)[2][3] |
Bộ phận thuộc | Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ |
Tổng hành dinh | khắp nơi trong Vùng đô thị Washington |
biệt danh | "The Few, The Proud" (ít nhưng hãnh diện) |
Khẩu hiệu | "Semper Fidelis" (luôn trung thành) |
Màu sắc | đỏ tươi và vàng |
Hành khúc | Marine's Hymn |
Tham chiến | Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq |
Các tư lệnh | |
Tham mưu trưởng | Đại tướng David H. Berger |
Tham mưu phó | Đại tướng Gary L. Thomas |
Quân hiệu | |
Đại bàng, địa cầu và mỏ neo | |
Phi cơ sử dụng | |
Cường kích | AV-8B, F/A-18D |
Điện tử | EA-6B |
Khu trục | F/A-18A/C |
Trực thăng | AH-1W, UH-1N, CH-46E, CH-53D, CH-53E, MV-22 |
Thám thính | RQ-7, ScanEagle |
Vận tải | KC-130J |
Đại úy Samuel Nicholas thành lập hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Lục địa vào ngày 10 tháng 11 năm 1775 tại Philadelphia với vai trò như Bộ binh Hải quân.[8] Kể từ đó, sứ mệnh của Thủy quân Lục chiến thay đổi cùng với chính sách ngoại giao và học thuyết quân sự biến đổi theo thời gian của Hoa Kỳ. Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã phục vụ trong mọi cuộc xung đột quân sự của Hoa Kỳ và được nổi bật trong thế kỷ 20 khi các lý thuyết và thực tiễn của chiến tranh đổ bộ từ biển cho thấy kết quả hết sức khả quan và đã tạo nên trụ cột vững chắc tại mặt trận Thái Bình Dương trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.[9] Vào giữa thế kỷ 20, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã trở thành những lý thuyết gia và chuyên gia về chiến tranh đổ bộ từ biển.[10][11][12] Khả năng của quân chủng phản ứng nhanh đối với các cuộc khủng hoảng đã chứng tỏ rằng quân chủng có một vai trò mạnh trong việc triển khai và thực hiện chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.[13]
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ có khoảng trên 203.000 binh sĩ (tính đến tháng 10 năm 2009) hiện dịch[1][2] và dưới 40.000 binh sĩ trừ bị.[3] Thủy quân Lục chiến là quân chủng nhỏ nhất trong các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (Tuần duyên Hoa Kỳ nhỏ hơn, khoảng 1/5 quân số của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nhưng binh chủng này thường nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ Nội an Hoa Kỳ). Tuy nhiên Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ lớn hơn toàn bộ lực lượng vũ trang của một số cường quốc quân sự nổi bật khác, ví dụ như nó lớn hơn lực lượng vũ trang hiện dịch của Israel hay toàn bộ Lục quân Anh.[14][15]
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ chiếm khoảng 6% ngân sách quân sự của Hoa Kỳ. Chi tiêu cho mỗi binh sĩ Thủy quân Lục chiến là $20.000 ít hơn chi tiêu cho bất cứ binh sĩ nào trong các quân chủng khác. Toàn bộ lực lượng có thể được sử dụng cho cả các chiến dịch lớn và các chiến dịch thủy bộ.[16]