Thiếp Mộc Nhi
Nhà chinh phạt Hồi giáo người Đột Quyết–Mông Cổ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thiếp Mộc Nhi (tiếng Ba Tư: تیمور Timūr, tiếng Sát Hợp Đài: Temür, tiếng Uzbek: Temur, chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi Tamerlane[2] (tiếng Ba Tư: تيمور لنگ Timūr(-e) Lang), là hoàng đế, chính trị gia, nhà quân sự kiệt xuất người Đột Quyết – Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Timurid ở Ba Tư và Trung Á.[3] Là một trong những người chưa thua một trận chiến nào trong suốt cuộc đời, ông được nhiều người coi là một trong những nhà lãnh đạo và chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử.[4][5] Thiếp Mộc Nhi cũng được coi là người bảo trợ lớn cho nghệ thuật và kiến trúc, khi ông tiếp xúc với các trí thức như Ibn Khaldun và Hafiz-i Abru và triều đại của ông đã bắt đầu thời kỳ Phục hưng Timurid.
Temür Thiếp Mộc Nhi | |
---|---|
Amir, Hãn | |
Chân dung Thiếp Mộc Nhi (Timur) mô phỏng từ xương sọ bởi Mikhail Mikhaylovich Gerasimov | |
Hoàng đế nhà Timurid | |
Tại vị | 9 tháng 4 năm 1370– 14 tháng 2 năm 1405 |
Đăng quang | 9 tháng 4 năm 1370, Balkh [1] |
Tiền nhiệm | Amir Hussain |
Kế nhiệm | Cáp Lợi Lặc |
Thông tin chung | |
Sinh | 8 tháng 4 năm 1336 [1] Kesh, Hãn quốc Sát Hợp Đài (ngày nay thuộc Uzbekistan) |
Mất | 18 tháng 2 năm 1405 (68 tuổi) Otrar, Farab, gần Shymkent, Sông Tích Nhĩ (ngày nay thuộc Kazakhstan) |
An táng | Gur-e-Amir, Samarkand |
Phối ngẫu |
|
Hậu duệ |
|
Hoàng tộc | Nhà Timurid |
Thân phụ | Muhammad Taraghai |
Thân mẫu | Tekina Mohbegim |
Tôn giáo | Hồi giáo |
Được sinh ra trong liên minh Ba Lỗ ở vùng Transoxiana, Thiếp Mộc Nhi giành lấy quyền kiểm soát ở miền tây Hãn quốc Sát Hợp Đài vào năm 1370. Từ cơ sở này, ông đã ra sức bành trướng, xâm lược nhiều nơi ở Tây, Nam và Trung Á, vùng Kavkaz và miền nam nước Nga, và ông đã trở thành vị vua Hồi giáo hùng mạnh nhất sau khi đánh bại quân đội nhà Mamluk của Ai Cập và Syria, chinh phạt đế quốc Ottoman và làm suy yếu Vương triều Hồi giáo Delhi. Từ những cuộc chinh phạt này, ông đã thành lập nên Đế quốc Timurid. Ông đã cai trị một đế quốc mà ngày nay trải dài từ Nam Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Iraq, Kuwait và Iran, xuyên qua Trung Á bao gồm một phần của Kazakhstan, Afghanistan, Azerbaijan, Gruzia, Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Pakistan, Ấn Độ, và thậm chí vươn đến Kashgar ở Trung Quốc. Bắc Iraq vẫn còn nằm dưới quyền của người Assyria Kitô giáo cho đến khi bị Thiếp Mộc Nhi phá hủy.[6]
Thiếp Mộc Nhi được xem như là một trong những nhà chinh phạt du mục lớn cuối cùng ở thảo nguyên Á-Âu. Quân đội đa sắc tộc của ông đã gieo rắt nỗi sợ hãi trên khắp châu Á, châu Phi và châu Âu bằng các cuộc bành trướng quân sự đẫm máu trên diện rộng. Các học giả ước tính rằng các chiến dịch quân sự của Thiếp Mộc Nhi đã gây ra cái chết của 17 triệu người, chiếm khoảng 5% dân số thế giới vào thời điểm đó.[7][8] Trong số tất cả các khu vực mà ông ta chinh phục, Khwarazm phải hứng chịu nhiều nhất từ các cuộc thảo phạt, vì người dân ở đó đã nổi dậy nhiều lần để chống lại sự cai trị của ông.
Là người có dòng dõi Đột Quyết – Mông Cổ, Timur chịu thấm nhuần trong văn hóa Ba Tư.[9] Ông đã khao khát phục hưng lại Đế quốc Mông Cổ, thế nhưng trận chiến ác liệt nhất của ông là chiến dịch quân sự trước hãn quốc Kim Trướng của Mông Cổ, một cuộc xung đột không thể tránh khỏi sau chiến dịch trước đó của ông nhằm tiêu diệt Tokhtamysh. Ông tự cho mình là một ghazi (chiến binh thần của đạo Hồi), nhưng các trận đánh lớn nhất của ông lại là trước các quốc gia Hồi giáo khác.
Là một người có niềm đam mê với nghệ thuật và kiến trúc, ông đã bảo trợ cho những lĩnh vực này khi thu dụng những nghệ nhân và thợ thủ công có tài, để xây dựng và trang trí những công trình thảo mộc hoành tráng ở quê nhà. Tuy nhiên, ông cũng cướp đoạt, giết chóc, thảm sát và phá hủy các trung tâm học thuật vĩ đại của các quốc gia đối địch trong các cuộc chinh phạt của mình. Điều này khiến hình tượng của ông trở thành một đề tài gây tranh cãi ở một số quốc gia như Ấn Độ, Tây Á và Iran, và ông đặc biệt bị ghê ghét ở các xứ này. Tuy nhiên, nhiều người Trung Á lại dành cho ông một sự ngưỡng mộ, nhiều người đã đặt tên con cái của mình theo tên ông còn văn học Ba Tư gọi ông là "Teymour, kẻ chinh phục Thế giới" (Ba Tư: تیمور جهانگير ).