Phổ Nghi
Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phổ Nghi (tiếng Mãn: ᡦᡠ
ᡳ, Möllendorff: Pu I, Abkai: Pu I, tiếng Trung: 溥儀; bính âm: Pǔ Yí; 7 tháng 2, năm 1906 – 17 tháng 10, năm 1967), Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng của triều đại Mãn Thanh nói riêng và của chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc nói chung.
Tuyên Thống Đế 宣統帝 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||
Hoàng đế Đại Thanh | |||||||||
Tại vị | 2 tháng 12 năm 1908 – 12 tháng 2 năm 1912 (3 năm, 72 ngày) | ||||||||
Tiền nhiệm | Thanh Đức Tông | ||||||||
Kế nhiệm | Chế độ phong kiến sụp đổ (Được tái lập khoảng 11 ngày năm 1917 bởi Trương Huân) | ||||||||
Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc | |||||||||
Tại vị | 1 tháng 3 năm 1934 – 15 tháng 8 năm 1945 (11 năm, 167 ngày) | ||||||||
Tiền nhiệm | Triều đại thành lập | ||||||||
Thủ tướng |
| ||||||||
Kế nhiệm | Triều đại sụp đổ | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | (1906-02-07)7 tháng 2, 1906 Bắc Kinh, Nhà Thanh | ||||||||
Mất | 17 tháng 10, 1967(1967-10-17) (61 tuổi) Bắc Kinh, Trung Quốc | ||||||||
An táng | Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn Năm 1996 dời về Tây Thanh Mộ. | ||||||||
Phối ngẫu | Uyển Dung Lý Thục Hiền | ||||||||
| |||||||||
Triều đại | Nhà Thanh | ||||||||
Thân phụ | Tải Phong | ||||||||
Thân mẫu | Ấu Lan |
Ông lên ngôi lúc 2 tuổi, thoái vị năm 1912 khi Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và được Phát xít Nhật đưa lên làm Hoàng đế bù nhìn của Đại Mãn Châu Đế quốc ở Đông Bắc Trung Quốc năm 1934. Năm 1945, ông bị Hồng quân Liên Xô bắt và quản thúc, sau đó có góp mặt trong phiên tòa xét xử các tội phạm chiến tranh của Nhật. Từ năm 1949 đến 1959, ông được trả về nước và bị Quốc vụ viện Trung Quốc quản thúc, giam giữ vì tội danh bắt tay với quân xâm lược Nhật. Tháng 12 năm 1959, ông được thả và sống ở Bắc Kinh như một thường dân cho đến khi qua đời.
Ông có một niên hiệu chính thức khi là Hoàng đế Đại Thanh, gọi là Tuyên Thống, do đó hay được gọi là Tuyên Thống Hoàng đế (宣統皇帝). Và dù sau này ông có thêm hai niên hiệu khác trong thời kỳ Mãn Châu quốc là Đại Đồng cùng Khang Đức, thì ông vẫn được biết đến như Tuyên Thống Đế hơn cả. Do viết chiếu thư nhường vị, ông cũng được biết đến với vị hiệu là Tốn Hoàng đế (遜皇帝) hay Mạt đại Hoàng đế (末代皇帝).