Opus
From Wikipedia, the free encyclopedia
Opus là từ dùng để chỉ một tác phẩm âm nhạc trong nhạc cổ điển.[1][2][3][4]
Từ nguyên gốc tiếng Latinh opus (phiên âm: "ô-pút"), tương đương với từ "work" (tiếng Anh) và "œuvre" (tiếng Pháp) nghĩa là tác phẩm.[1][5][6][7] Opus dùng để chỉ một nhạc phẩm khí nhạc, được đánh số theo trình tự nhất định của một tác giả.[1][8] Thuật ngữ "opus" thường được viết tắt là "op." và luôn đi kèm theo một con số chỉ thứ tự mà nhạc sĩ sáng tác ra tác phẩm đó đánh số theo trình tự nhất định nào đó, hoặc có khi trình tự này do nhà xuất bản ấn định. Vì vậy, trong tiếng Anh thuật ngữ này được gọi đầy đủ hơn là opus number (số của tác phẩm). Chẳng hạn op. 2 của Joseph Haydn là tác phẩm số hai trong thứ tự sáng tác của ông.
Số opus giúp người nghe hoặc người nghiên cứu âm nhạc biết được sáng tác sớm hay muộn trong sự nghiệp của một nhà soạn nhạc, hoặc giúp phân biệt các nhạc phẩm cùng thể loại và cùng chủ đề của cùng một nhạc sĩ. Chẳng hạn Frédéric Chopin có hai bản bản côngxectô cho dương cầm, đều gọi là "piano concerto", thì bản op.11 ra đời trước gọi là bản côngxectô số 1, còn bản op.21 là bản côngxectô số 2.
Trong nhạc cổ điển, một opus thường là một tác phẩm âm nhạc riêng biệt, không giới hạn về độ dài biểu diễn, nhưng có khi - tùy theo nhạc sĩ sáng tác - một opus lại gồm nhiều tác phẩm, hoàn toàn độc lập với nhau, tuy cùng thể loại. Chẳng hạn, op. 21 của Ludwig van Beethoven là bản Giao hưởng số 1 dài khoảng 25 - 30 phút là một tác phẩm gồm bốn chương (movements) cần biểu diễn liên tục; còn op. 64 của Frédéric Chopin gồm ba nhạc phẩm độc lập, có thể biểu diễn tách riêng đánh số là "op. 64 n°1", "op. 64 n°2" và "op. 64 n°3".
Thuật ngữ âm nhạc này hiện nay thường chỉ tồn tại trong lĩnh vực nghiên cứu và biểu diễn nhạc cổ điển.[2][9] Thêm vào đó, sự "đánh số" nhạc phẩm kiểu này cũng có nhược điểm, nên đã xuất hiện các hệ thống khác.