Guus Hiddink
From Wikipedia, the free encyclopedia
Guus Hiddink (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1946 tại Varsseveld) là một cựu huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan. Trong sự nghiệp huấn luyện của mình ông đã thành công với PSV Eindhoven khi đưa câu lạc bộ này đoạt cup châu Âu năm 1988, vô địch Hà Lan nhiều năm liền, đặc biệt là chiến tích đưa Hàn Quốc đạt hạng 4 ở FIFA World Cup 2002 trên sân nhà, và hạng 4 với Hà Lan tại FIFA World Cup 1998 trước đó. Năm 2006 ông cũng đưa đội tuyển Úc lọt vào được vòng 2 vòng chung kết FIFA World Cup 2006 như đội tuyển quốc gia châu Á duy nhất làm được điều đó 2006 sau khi Úc được dự World Cup sau 32 năm chờ đợi của họ. Sau World Cup 2006 ông làm huấn luyện viên cho đội tuyển Nga và cũng đưa đội này vượt qua vòng loại UEFA Euro 2008 để đến Áo và Thụy Sĩ vào tháng 6-2008, đánh bại đội Hà Lan vòng tứ kết với tỷ số 3:1 để lọt vào vòng bán kết. Vì thế mà ông có biệt danh là Lucky Guus. Còn ở quê hương Hà Lan, ông là một "Boeren" có nghĩa là "kẻ nhà quê".
Hiddink huấn luyện FC Anzhi Makhachkala vào tháng 3 năm 2012 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Guus Hiddink | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
SC Varsseveld | |||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1967–1970 | De Graafschap | ||
1970–1972 | PSV Eindhoven | 30 | (1[1]) |
1972–1977 | De Graafschap | 130 | (9[1]) |
1977–1981 | NEC Nijmegen | 104 | (2[1]) |
1978 | → Washington Diplomats (mượn) | 13 | (4[2]) |
1980 | → San Jose Earthquakes (mượn) | 15 | (0[2]) |
1981–1982 | De Graafschap | 25 | (0[1]) |
Tổng cộng | 317 | (16) | |
Sự nghiệp quản lý | |||
Năm | Đội | ||
1982–1984 | De Graafschap (phó quản lý) | ||
1984–1987 | PSV Eindhoven (phó quản lý) | ||
1987–1990 | PSV Eindhoven | ||
1990–1991 | Fenerbahçe S.K. | ||
1991–1994 | Valencia | ||
1994–1998 | Hà Lan | ||
1998–1999 | Real Madrid | ||
2000 | Real Betis | ||
2001–2002 | Hàn Quốc | ||
2002–2006 | PSV Eindhoven | ||
2005–2006 | Úc | ||
2006–2010 | Nga | ||
2009 | Chelsea (tạm quyền) | ||
2010–2011 | Thổ Nhĩ Kỳ | ||
2012–2013 | FC Anzhi Makhachkala | ||
2014–2015 | Hà Lan | ||
2015–2016 | Chelsea (tạm quyền) | ||
2018–2019 | U23 Trung Quốc | ||
2020–2021 | Curaçao | ||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Ngoài ra, Guus Hiddink đã huấn luyện Chelsea FC vào giai đoạn lượt về mùa bóng 2008 - 2009, ông đã tạo ra những bước tiến mới cho đội bóng khi giành chiến thắng trước Liverpool tại vòng tứ kết giải Champion League. Tuy nhiên đội bóng của ông lại thất bại trước FC Barcelona. Ông cũng giúp Chelsea giành được cúp FA mùa bóng 2008-2009.
Trong khi đó, sau khi Nga không thể vượt qua vòng loại World Cup 2010, Hiddink đã từ chức huấn luyện viên. Ông trở lại Thổ Nhĩ Kỳ với tư cách là huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng thời gian cầm quân của kết thúc hai năm sau đó sau khi đội tuyển quốc gia này không thể vượt qua vòng loại Euro 2012. Vào tháng 2 năm 2012, Hiddink trở lại dẫn dắt đội bóng Nga Anzhi Makhachkala. Sau một thời gian thành công, Hiddink rời Anzhi vào tháng 7 năm 2013.
Sau FIFA World Cup 2014, Hiddink kế nhiệm Louis van Gaal làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Hà Lan, lần thứ hai ông nắm quyền tại quê nhà. Tuy nhiên, thời gian cầm quân của ông đã kết thúc khi Hà Lan đang phải vật lộn để đủ điều kiện tham dự Euro 2016; sau đó ông bị sa thải và được thay thế bởi Danny Blind. Sau đó, vào tháng 12/2015, ông được bổ nhiệm làm Huấn luyện viên tạm quyền của câu lạc bộ Chelsea sau khi HLV Jose Mourinho chia tay Chelsea.
Năm 2018, Hiddink được mời làm Huấn luyện viên trưởng Đội tuyển U-21 và U23 Trung Quốc và không lâu sau bị CFA sa thải vì thành tích bết bát ngay sau khi thua đội Việt Nam tại trận giao hữu trên sân nhà của họ.
Ngày 9 tháng 9 năm 2021, ông chính thức tuyên bố nghỉ hưu, khép lại sự nghiệp huấn luyện viên kéo dài 34 năm đầy thăng trầm.