John R. Bolton
From Wikipedia, the free encyclopedia
John Robert Bolton (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1948) là một luật sư, nhà bình luận chính trị, cố vấn của đảng Cộng hòa, quan chức chính phủ và cựu nhà ngoại giao, làm Cố vấn an ninh quốc gia của Hoa Kỳ thứ 27 kể từ ngày 9 tháng 4 năm 2018.[6]
John R. Bolton | |
---|---|
Cố vấn An ninh Quốc gia thứ 27 của Hoa Kỳ | |
Nhiệm kỳ 9 tháng 4 năm 2018 – 18 tháng 9 năm 2019 1 năm, 162 ngày | |
Tổng thống | Donald Trump |
Cấp phó | Nadia Schadlow Ricky L. Waddell Mira Ricardel Charles Kupperman |
Tiền nhiệm | H. R. McMaster |
Kế nhiệm | Robert O’Brien |
Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc thứ 25 | |
Nhiệm kỳ 2 tháng 8 năm 2005 – 31 tháng 12 năm 2006 1 năm, 151 ngày | |
Tổng thống | George W. Bush |
Tiền nhiệm | John Danforth |
Kế nhiệm | Zalmay Khalilzad |
Thứ trưởng Bộ Kiểm soát Vũ khí và An ninh Quốc tế thứ 3 | |
Nhiệm kỳ 11 tháng 5 năm 2001 – 31 tháng 7 năm 2005 4 năm, 81 ngày | |
Tổng thống | George W. Bush |
Tiền nhiệm | John D. Holum |
Kế nhiệm | Robert Joseph |
Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao về các tổ chức quốc tế thứ 18 | |
Nhiệm kỳ 22 tháng 5 năm 1989 – 20 tháng 1 năm 1993 3 năm, 243 ngày | |
Tổng thống | George H. W. Bush |
Tiền nhiệm | Richard S. Williamson |
Kế nhiệm | Douglas J. Bennet |
Trợ lý Tổng chưởng lý Hoa Kỳ cho Phòng dân sự | |
Nhiệm kỳ 1988 – 1989 | |
Tổng thống | Ronald Reagan |
Tiền nhiệm | Richard K. Willard |
Kế nhiệm | Stuart M. Gerson |
Trợ lý Tổng chưởng lý Hoa Kỳ cho Văn phòng Lập pháp | |
Nhiệm kỳ 1985 – 1988 | |
Tổng thống | Ronald Reagan |
Tiền nhiệm | Robert A. McConnell[1] |
Kế nhiệm | Thomas M. Boyd[2] |
Trợ lý Quản trị viên của Cơ quan Phát triển Quốc tế về Điều phối Chương trình và Chính sách Hoa Kỳ | |
Nhiệm kỳ 1982 – 1983 | |
Tổng thống | Ronald Reagan |
Tiền nhiệm | Alexander Shakow[3] |
Kế nhiệm | Richard A. Derham[4] |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | John Robert Bolton 20 tháng 11, 1948 (75 tuổi) Baltimore, Maryland, Hoa Kỳ |
Đảng chính trị | Cộng hòa |
Phối ngẫu | Christine Bolton (cưới 1972–1983) Gretchen Smith |
Con cái | 1 |
Giáo dục | Đại học Yale (cử nhân, tiến sĩ luật) |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Hoa Kỳ |
Phục vụ | Lục quân Hoa Kỳ
|
Năm tại ngũ | 1970–1976[5] |
Bolton từng là Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc từ tháng 8 năm 2005 đến tháng 12 năm 2006 với tư cách là người được bổ nhiệm làm tổng thống của Tổng thống George W. Bush.[7] Ông đã từ chức vào cuối bổ nhiệm tạm biệt vào tháng 12 năm 2006 bởi vì ông không có khả năng giành được xác nhận từ Thượng viện, mà Đảng Dân chủ đã giành được quyền kiểm soát vào thời điểm đó.[8][9]
Bolton là cựu thành viên cao cấp tại Viện doanh nghiệp Mỹ (AEI),[10] và bình luận viên Fox News Channel. Ông là cố vấn chính sách đối ngoại cho ứng cử viên tổng thống năm 2012 Mitt Romney.[11] Bolton đã tham gia với nhiều tổ chức bảo thủ, bao gồm cả những người chống Hồi giáo cực hữu Viện Gatstone,[12] nơi ông từng là Chủ tịch tổ chức cho đến tháng 3 năm 2018.[13]
Bolton là một chim ưng chính sách đối ngoại và là người ủng hộ thay đổi chế độ ở Iran, Syria, Libya, Venezuela, Cuba, Yemen và Triều Tiên.[14][15] Ông cũng đã nhiều lần kêu gọi chấm dứt thỏa thuận hạt nhân Iran. Ông là người ủng hộ chiến tranh Iraq và tiếp tục ủng hộ quyết định xâm chiếm Iraq.[16] Ông đã liên tục hỗ trợ hành động quân sự và thay đổi chế độ ở Syria, Libya và Iran.[16][17] Một người Cộng hòa, quan điểm chính trị của ông đã được mô tả là người theo chủ nghĩa dân tộc Mỹ,[18][19] bảo thủ,[20][21][22][23] và "tân cổ điển".[24] Bolton từ chối thuật ngữ cuối cùng [25] và thay vào đó sử dụng thuật ngữ "thân Mỹ".[26][27][28]