Panther
dòng xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã / From Wikipedia, the free encyclopedia
Xe tăng Panther (Con Báo) là tên một loại chiến xa hạng trung phục vụ cho lực lượng Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm thay thế cho Panzer III và Panzer IV làm đối trọng với xe tăng T-34 của Liên Xô. Panther đã hoạt động cho đến tận cuối cuộc chiến cùng với Tiger I. Panther là loại tăng có sự phối hợp tuyệt vời giữa hỏa lực, lớp giáp bọc, động cơ cũng như độ linh hoạt mà ít loại tăng nào trong Đại chiến thế giới có thể sánh bằng. Nó có ảnh hưởng không nhỏ sau chiến tranh mặc dù không được áp dụng vào từng chi tiết. Nhiều nhà sử học quân sự cho rằng Panther là một trong những loại xe tăng hiện đại nhất trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.[3][4]
Xe tăng Con Báo (Panther) | |
---|---|
Xe tăng Con Báo (Panther) tại bảo tàng thiết giáp Bovington (Bovington Tank Museum) | |
Loại | Xe tăng hạng trung |
Nơi chế tạo | Đức Quốc xã |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1943–1945 (bởi lực lượng Đức Quốc xã) |
Sử dụng bởi | Đức Quốc xã (nước sử dụng chính) Pháp (chỉ sử dụng một vài chiếc chiếm được) Liên Xô (chỉ sử dụng một vài chiếc chiếm được) România (sử dụng 13 chiếc sau chiến tranh) Bulgaria (chỉ sử dụng một vài chiếc chiếm được) Hungary (chỉ sử dụng một vài chiếc bắt được) |
Trận | Chiến tranh thế giới thứ hai |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | MAN AG |
Năm thiết kế | 1942 |
Giai đoạn sản xuất | 1942–1945 |
Số lượng chế tạo | Khoảng 6.000 chiếc[1] |
Thông số | |
Khối lượng | 44,8 tấn[2] |
Chiều dài | 6,87 m 8,66 m - kể cả pháo chính[2] |
Chiều rộng | 3,27 m [2] 3,42 m - tính luôn cả giáp váy |
Chiều cao | 2,99 m |
Kíp chiến đấu | 5 |
Phương tiện bọc thép | Panther Ausf.D: 15-130 mm (tùy vị trí) Panther Ausf.G: 15-140mm (tùy vị trí) |
Vũ khí chính | 1 × 7,5 cm KwK 42 L/70 79 viên[2] |
Vũ khí phụ | 2 × 7,92 mm Maschinengewehr 34 5.100 viên |
Động cơ | Maybach HL230 P30 (động cơ 12 xi-lanh; sử dụng xăng để chạy)[2] 700 PS (690 hp, 515 kW) |
Công suất/trọng lượng | 15,39 PS/tấn (13,77 hp/tấn) |
Hệ truyền động | ZF AK 7-200; 7 số tiến và một số lùi[2] |
Hệ thống treo | Thanh xoắn đôi, hệ thống bánh gối xếp chồng |
Tầm hoạt động | 250 km |
Tốc độ | 55 km/giờ (mẫu đời đầu), 46 km/giờ (mẫu đời sau) |
Vào năm 1944, nó được đặt tên lại là Panzerkampfwagen V Panther và theo tên kĩ thuật là Sd.Kfz. 171. Ngày 27 tháng 2 năm 1944, Quốc trưởng Adolf Hitler đã quyết định bỏ số V ra khỏi tên chính thức của Panther vì muốn tỏ ra đây là một loại tăng mới hoàn toàn. Với trọng lượng 45 tấn, Đức phân loại Panther là xe tăng hạng trung, trong khi theo cách phân loại của Mỹ, Anh, Liên Xô thì Panther là một xe tăng hạng nặng.
Trên thực tế, Panther chính là phiên bản tăng được phối hợp từ nhiều các loại tăng khác nhau. Nó có động cơ giống như Tiger I, tuy nhiên pháo chính của Panther dài hơn, có độ xuyên giáp và giáp trước nhỉnh hơn chút ít so với Tiger I. Panther có trọng lượng nhẹ hơn nếu tính theo tổng thể và di chuyển nhanh hơn, nó còn có khả năng di chuyển trong các địa hình khác nhau. Pháo nòng dài 75mm của Panther bắn ra loại đạn nhỏ hơn so với pháo 88mm của xe tăng Tiger I, khiến cho sức nổ của đạn yếu hơn, tạo điều kiện cho bộ binh địch tiếp cận xe tăng dễ hơn, nhưng dù sao pháo 75mm của Panther vẫn thực hiện nhiệm vụ khá tốt. Về vỏ giáp, giáp trước Panther nhỉnh hơn chút ít so với Tiger I nhưng giáp hông thì yếu hơn khá nhiều. Điểm yếu nhất của Panther chính là lớp giáp sườn khá mỏng (chỉ có 45mm nghiêng 20 độ) khiến nó dễ bị phá hủy nếu bị bắn trúng vào hông, đặc biệt là trong các trận đấu tăng tầm ngắn.
Panther có chi phí sản xuất rẻ hơn Tiger I và Tiger II nhưng đắt hơn Panzer IV, nó được thiết kế ra nhằm thay thế Panzer IV và cân bằng lại mặt trận với các đối thủ tăng Liên Xô. Ngay sau khi được thiết kế, Panther đã cho kết quả rất tốt trên chiến trường và không lâu sau đó được nhân rộng sản xuất nhiều hơn cả Tiger dù không nhiều bằng Panzer IV. Panther chủ yếu hơn các xe tăng hạng nặng khác của Đức ở chỗ bộ truyền lực, bộ truyền động bằng xích tạo điều kiện cho Panther có tỉ lệ sản xuất cao và ít tốn thời gian. Ngược lại, hệ thống động cơ với công suất cao và hệ thống treo phức tạp lại làm thời gian sản xuất chậm lại nhưng chúng vẫn thực hiện nhiệm vụ của mình khá tốt; lớp giáp bọc khá dày và vũ khí cũng rất mạnh. Chính vì vậy Panther có hiệu quả hơn rất nhiều so với Tiger và Panzer-IV. Nhược điểm kĩ thuật duy nhất của nó là bộ phận truyền động bằng xích, mặc dù vấn đề này được đề cập nhiều lần nhưng vẫn chưa bao giờ được sửa chữa.
Xe tăng Panther bắt đầu hoạt động chính thức vào năm 1943, khi Đức Quốc xã cố gắng lấy lại thế cân bằng trên toàn mặt trận. Trong trận vòng cung Kursk, trước khi các vấn đề về bánh răng được sửa chữa, Panther được huy động không nhiều. Sau đó, trên các mặt trận phía Tây và phía Đông từ năm 1943 cho đến cuối cuộc chiến, Panther là một trong những loại tăng chính góp phần bảo vệ lãnh thổ của Đức Quốc xã, nhưng những thành công của nó thường bị hạn chế do sự thiếu hụt về không quân, nhiên liệu và những kíp chiến đấu không được rèn luyện kỹ. Tuy nhiên nó vẫn là một trong những loại xe tăng thành công nhất của người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai với các ưu điểm về kĩ thuật và vũ khí. Phe Đồng Minh và Liên Xô đã phản ứng rất tích cực trước việc người Đức tung ra mẫu tăng này bằng cách thiết kế và đưa vào chiến tranh các loại xe tăng hạng nặng như IS-2 và M26 Pershing.