Wilhelm II, Hoàng đế Đức
hoàng đế Đức và vua của nước Phổ từ năm 1888 đến 1918 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (Kaiser) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng thời cũng là vị Quốc vương cuối cùng của Vương quốc Phổ, trị vì từ năm 1888 cho đến năm 1918. Ông là một trong những nhân vật chủ chốt trong lịch sử châu Âu vào thế kỷ 20, và những chính sách của ông đóng vai trò quyết định đối với sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[1] Thuở thiếu thời, ông lâm vào sự mâu thuẫn gay gắt đối với song thân của ông, và đặc biệt là mẹ của ông - Vương nữ Victoria, con gái cả của Nữ vương Victoria nước Anh.[2] Ông lên nối ngôi lúc đã gần 30 tuổi và hai năm sau đó ông sa thải Thủ tướng Otto von Bismarck do bất đồng với chính sách ngoại giao khôn khéo của Bismarck.[2] Wilhelm II thực hiện chính sách cô lập nước Đức, tạo điều kiện cho Nga liên minh với Pháp vào năm 1894.[3] Ông là người có chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc cùng với mong muốn xây dựng lực lượng hải quân mạnh nhằm đưa nước Đức trở thành cường quốc hàng đầu thế giới.[4]
Wilhelm II | |||||
---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Đức/Quốc vương Phổ, | |||||
Hoàng đế Wilhelm II, năm 1910 | |||||
Hoàng đế Đức Quốc vương Phổ | |||||
Trị vì | 15 tháng 6 năm 1888 – 9 tháng 11 năm 1918 30 năm, 147 ngày | ||||
Tiền nhiệm | Friedrich III | ||||
Kế nhiệm |
| ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 27 tháng 1 năm 1859 Berlin, Phổ | ||||
Mất | 4 tháng 6 năm 1941(1941-06-04) (82 tuổi) Huis Doorn, Doorn, Hà Lan | ||||
An táng | Huis Doorn, Hà Lan | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Tước vị |
| ||||
Hoàng tộc | Nhà Hohenzollern | ||||
Hoàng gia ca | Heil dir im Siegerkranz | ||||
Thân phụ | Friedrich III của Đức | ||||
Thân mẫu | Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh | ||||
Tôn giáo | Giáo hội Phúc Âm Ki-tô giáo (Phổ) | ||||
Chữ ký | |||||
|
Wilhelm II là một trong những danh nhân lịch sử có sức hút lớn nhất đối với hậu thế.[5] Là người có tính cách mâu thuẫn, ông mong muốn trở thành một vị vua - chiến binh lỗi lạc nhưng lại yếu ớt. Thừa hưởng Đế quốc Đức hùng mạnh, ông quyết tâm mở mang nền văn hóa, nghệ thuật, nhạc kịch và kiến trúc, với không ít thành công. Chính sách này khiến ông tự coi mình là vị "Hoàng đế hiếu hòa" (Friedenskaiser). Tuy không thích người Do Thái nhưng vị Hoàng đế khoan dung một nhóm doanh nghiệp Do Thái bởi lẽ ông nhận thấy tầm quan trọng của họ.[6] Với tính khí khác thường, ông thường nói thế này nhưng lại làm thế khác.[7] Ông cũng khuếch trương xây dựng lực lượng Hải quân Đức, và cuộc chạy đua hải quân giữa Đế quốc Đức và Đế quốc Anh chính là một nhân tố quan trọng dẫn đến quan hệ ngoại giao tồi tệ giữa chính phủ 2 nước.[8] Cho đến năm 1914, nước Đức đã có nền kinh tế vượt trội so với Anh, và lớn mạnh hơn bất kỳ một liệt cường nào khác - một thành tựu lẫy lừng của triều đại Wilhelm II. Trong khi ấy chính sách cô lập nước Đức của ông gặp một hậu quả là nước Anh liên minh với Nga và Pháp, mặc dù Đế quốc Áo-Hung ủng hộ Đức.[6] Wilhelm II cũng thiết lập liên minh với Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ.[9]
Dù có người tố cáo ông là kẻ gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực chất ông đã không ít lần ngăn cản sự bùng nổ và tiếp diễn của cuộc chiến này kể từ khi xảy ra những mầm mống của nó, và cả lúc nó đang tiếp diễn.[8] Trong chiến tranh, vai trò Tổng tư lệnh tối cao của ông chỉ còn là danh nghĩa, bị các tướng lĩnh Đức chi phối.[10] Do sự phối hợp kém của đồng minh và những sai lầm về chiến lược quân sự của mình, các chiến dịch của Đức nhằm đánh nhanh, thắng nhanh đều phá sản. Năm 1918, quân Anh, Pháp, Mỹ phản công trên khắp mặt trận, đồng thời cách mạng nổ ra chống lại chế độ Wilhelm.[11][12] Wilhelm buộc phải thoái vị vào năm 1918 và sang Hà Lan tị nạn. Kể từ năm 1920, ông sinh sống tại nhà riêng ở Doorn trên đất khách quê người. Khi ấy, ông vẫn luôn khao khát về nước khôi phục nền quân chủ, nhưng khi nhận thấy Đức Quốc xã không muốn điều này xảy ra, ông cắt đứt quan hệ với chính phủ Đức Quốc xã vào năm 1934, và ông vẫn an trí tại Hà Lan cho đến khi qua đời vào năm 1941 trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.[7]