Ariel Sharon
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ariel Sharon (tiếng Hebrew: אריאל שרוןⓘ; tên thật là Ariel Scheinermann, אריאל שיינרמן; 26 tháng 2 năm 1928 – 11 tháng 1 năm 2014) là vị tướng quân đội, chính trị gia và là thủ tướng thứ 11 của Israel từ tháng 3 năm 2001 đến tháng 4 năm 2006.
Ariel Sharon | |
---|---|
Thủ tướng thứ 11 của Israel | |
Nhiệm kỳ 7 tháng 3 năm 2001 – 14 tháng 4 năm 2006 5 năm, 38 ngày | |
Tổng thống | Moshe Katsav |
Phó Thủ tướng | Ehud Olmert |
Tiền nhiệm | Ehud Barak |
Kế nhiệm | Ehud Olmert |
Bộ trưởng Ngoại giao | |
Nhiệm kỳ 13 tháng 10 năm 1998 – 6 tháng 6 năm 1999 236 ngày | |
Thủ tướng | Benjamin Netanyahu |
Tiền nhiệm | David Levy |
Kế nhiệm | David Levy |
Bộ trưởng Năng lượng và Nguồn nước | |
Nhiệm kỳ 8 tháng 7 năm 1996 – 6 tháng 7 năm 1999 2 năm, 363 ngày | |
Thủ tướng | Benjamin Netanyahu |
Tiền nhiệm | Yitzhak Levy |
Kế nhiệm | Eli Suissa |
Bộ trưởng Gia cư và Xây dựng | |
Nhiệm kỳ 11 tháng 6 năm 1990 – 13 tháng 7 năm 1992 2 năm, 32 ngày | |
Thủ tướng | Yitzhak Shamir |
Tiền nhiệm | David Levy |
Kế nhiệm | Binyamin Ben-Eliezer |
Bộ trưởng Công nghiệp, Thương mại và Lao động | |
Nhiệm kỳ 13 tháng 9 năm 1984 – 20 tháng 2 năm 1990 5 năm, 160 ngày | |
Thủ tướng | Shimon Peres (1984–86) Yitzhak Shamir (1986–90) |
Tiền nhiệm | Gideon Patt |
Kế nhiệm | Moshe Nissim |
Bộ trưởng Quốc phòng | |
Nhiệm kỳ 5 tháng 8 năm 1981 – 14 tháng 2 năm 1983 1 năm, 193 ngày | |
Thủ tướng | Menachem Begin |
Tiền nhiệm | Menachem Begin |
Kế nhiệm | Menachem Begin |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Ariel Scheinermann 26 tháng 2 năm 1928 Kfar Malal, Lãnh thổ Ủy trị Palestine |
Mất | 11 tháng 1 năm 2014 (85 tuổi) Ramat Gan, Israel |
Đảng chính trị | Đảng Tự do (1973–1974)[1] Likud (1977–2005)[2] Kadima (2005–2006) |
Đảng khác | Shlomtzion (1977) |
Phối ngẫu |
|
Con cái | 3 |
Alma mater | Đại học Hebrew của Jerusalem Đại học Tel Aviv |
Chuyên nghiệp | Sĩ quan |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Israel |
Phục vụ | Haganah Lực lượng Phòng vệ Israel |
Năm tại ngũ | 1948–74 |
Cấp bậc | Aluf (Thiếu tướng) |
Đơn vị | Lữ đoàn Nhảy dù Đơn vị 101 Lữ đoàn Golani |
Chỉ huy | Bộ Tư lệnh Phía nam Lữ đoàn Nhảy dù Unit 101 Lữ đoàn Golani |
Tham chiến | Chiến tranh giành độc lập Israel Khủng hoảng kênh đào Suez Chiến tranh Sáu ngày Chiến tranh Yom Kippur |
|
Sharon là chỉ huy trong quân đội Israel kể từ khi đội quân này thành lập vào năm 1948 và từng tham gia chiến tranh giành độc lập của Israel. Ông có công lập ra Đơn vị 101, từng tham gia chiến tranh kênh đào Suez năm 1956, chiến tranh Sáu ngày năm 1967, chiến tranh Tiêu hao (1969 – 1970), chiến tranh Yom Kippur năm 1973 và chỉ huy chiến tranh Liban năm 1982.
Suốt quãng đời binh nghiệp, Sharon được xem là sĩ quan chỉ huy thực địa vĩ đại nhất trong lịch sử Israel và là một trong số các chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất từ trước đến nay của đất nước.[3] Sau cuộc đột kích bán đảo Sinai trong chiến tranh Sáu ngày và cuộc bao vây quân Ai Cập trong chiến tranh Yom Kippur, Israel đã tặng cho ông biệt danh "Vua Israel" và "Sư tử của Chúa trời".[3]
Sau khi giải ngũ, Sharon gia nhập đảng Likud và từng giữ vai trò bộ trưởng của nhiều bộ trong các chính phủ do Likud lãnh đạo giai đoạn 1977 – 1992 và 1996 – 1999. Ông lên chức lãnh đạo đảng Likud vào năm 2000 và nắm cương vị Thủ tướng Israel nhiệm kỳ 2001 – 2006. Giai đoạn 2004 – 2005, Thủ tướng Sharon đề ra kế hoạch đơn phương di cư người Do Thái khỏi dải Gaza, khiến bản thân ông phải hứng chịu sự chống đối khắc nghiệt trong nội bộ Likud. Tháng 11 năm 2005, Sharon rời Likud để lập đảng mới Kadima. Theo dự đoán, ông sẽ chiến thắng cuộc bầu cử lần tới và được cho là đang vạch kế hoạch rút người Do Thái khỏi hầu hết lãnh thổ Bờ Tây.[4][5][6] Tuy nhiên, ông bất ngờ bị tai biến mạch máu não vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 và rơi vào trạng thái sống thực vật[7] cho đến ngày ông từ trần.