Frédéric Chopin
Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chopin (tiếng Việt đọc như /sô-pen/ theo tiếng Ba Lan, hoặc đọc như /sô-panh/ theo tiếng Pháp, UK: /ˈʃɒpæ̃/, US: /ʃoʊˈpæn/,[1][2]) có tên khai sinh bằng tiếng Ba Lan là Fryderyk Franciszek Szopen (tiếng Ba Lan: [ˈʂɔpɛn]) [gc 1] [3](sinh ngày 1 tháng 3 năm 1810 – mất ngày 17 tháng 10 năm 1849) là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan của thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Ông nổi tiếng toàn thế giới như một trong những người đi tiên phong của thời kỳ này "với chất thơ thiên tài đi cùng với kỹ thuật không một ai đương thời có thể sánh bằng"[4]
Frédéric Chopin | |
---|---|
Chân dung Chopin chụp bằng phương pháp Daguerre, bởi Louis-Auguste Bisson, khoảng năm 1849. | |
Sinh | Fryderyk Franciszek Chopin (1810-03-01)1 tháng 3 năm 1810 Żelazowa Wola, Marzovia, Công quốc Warszawa |
Mất | 17 tháng 10 năm 1849(1849-10-17) (39 tuổi) Paris, Pháp |
Nghề nghiệp | Nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm, nghệ sĩ organ. |
Năm hoạt động | 1817-1848 |
Con cái | Không có |
Cha mẹ |
|
Chữ ký | |
Chopin sinh ra tại Żelazowa Wola, Công quốc Warszawa, và lớn lên chủ yếu ở thành phố Warsaw, sau này trở thành một phần của Vương quốc Lập hiến Ba Lan vào năm 1815. Chopin sớm nổi tiếng là thần đồng, và ông được đào tạo âm nhạc và văn hóa xuất sắc trước khi rời khỏi Ba Lan vào năm 20 tuổi, chỉ vài tuần trước cuộc Khởi nghĩa tháng Mười một. Chuyển tới Paris vào năm 21 tuổi, ông chỉ công diễn hơn 30 buổi — trong 18 năm— chủ yếu trong không khí thân mật của các cuộc họp mặt nghệ sĩ. Ông cũng kiếm sống bằng việc bán các sáng tác và dạy học, công việc mà ông được nhiều người yêu cầu. Ông cũng kết thân với nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt và là thần tượng của nhiều nghệ sĩ đương thời, có thể kể tới Robert Schumann.
Năm 1835, ông nhập quốc tịch Pháp. Sau khi đính hôn bất thành với Maria Wodzińska trong 2 năm 1836 và 1837, ông duy trì mối quan hệ nhiều trắc trở với nữ văn hào Pháp Amantine Dupin (nổi tiếng với bút danh George Sand). Chuyến đi thăm ngắn ngủi và khổ sở tại Majorca ở Tây Ban Nha cùng Sand trong các năm 1838–1839 chính là một trong những giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp sáng tác của Chopin. Những năm cuối đời, Jane Stirling trở thành người bảo trợ của ông và đưa ông tới thăm Scotland vào năm 1848. Suốt hầu hết cuộc đời mình, sức khỏe của Chopin không được ổn định. Ông qua đời ở Paris vào tháng 10 năm 1849 ở tuổi 39, với nhiều khả năng là do biến chứng của bệnh viêm màng ngoài tim (pericarditis) do bệnh lao phổi, vì nơi ông làm việc đông người và nhiều khói bụi.
Theo thống kê gần đây và chi tiết hơn cả, Chopin đã sáng tác 244 nhạc phẩm,[5] chưa kể nhiều tác phẩm (ôput) gồm nhiều bản nhạc độc lập (xem Danh sách tác phẩm của Chopin theo ôput). Tất cả các sáng tác của ông đều có dương cầm, trong đó hầu hết viết cho độc tấu (piano solo), mặc dù ông cũng đã viết hai concerto cho đàn piano, một vài tác phẩm nhạc thính phòng, và 19 bài hát có lời bằng tiếng Ba Lan. Phong cách piano của ông là bí truyền, các sáng tác của ông thường đòi hỏi về mặt kỹ thuật và mở rộng giới hạn của nhạc cụ: những màn trình diễn của ông đã được ghi nhận về sắc thái và độ nhạy. Chopin đã phát minh ra khái niệm về nhạc ballade. Tác phẩm piano chính của ông cũng bao gồm các bản mazurka, waltz, nocturne, polonaise, étude, impromptu, scherzo, prelude và sonata, một số được xuất bản chỉ sau khi ông qua đời. Những nguồn có ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của ông là dân ca Ba Lan, nhạc cổ điển truyền thống của J. S. Bach, Mozart, và Schubert, và bầu không khí của các cuộc họp mặt nghệ sĩ ở Paris mà ông là khách thường xuyên. Những đổi mới của ông về phong cách, hòa âm, và hình thức âm nhạc, và sự kết hợp âm nhạc với chủ nghĩa dân tộc của ông, đã có ảnh hưởng trong suốt và sau giai đoạn hậu Lãng mạn.
Âm nhạc của Chopin, với danh tiếng của ông như là một trong những siêu sao đầu tiên của âm nhạc, với các mối liên hệ (gián tiếp) với các cuộc biến động chính trị, kèm cuộc sống tình cảm hỗn loạn thường xuyên, và cái chết sớm của Chopin đã khiến ông trở thành biểu tượng hàng đầu của thời đại lãng mạn. Tác phẩm của ông vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay, và ông là chủ đề của nhiều bộ phim và tiểu sử với các mức độ trung thực lịch sử khác nhau.