Josef Mengele
From Wikipedia, the free encyclopedia
Josef Mengele ([ˈjoːzɛf ˈmɛŋələ] ⓘ; 16 tháng 3 năm 1911 – 7 tháng 2 năm 1979), còn được biết đến với biệt danh Thiên thần Chết (tiếng Đức: Todesengel),[1] là một sĩ quan Schutzstaffel (SS) và bác sĩ quân y người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khét tiếng vì những thí nghiệm vô nhân đạo trên các tù nhân tại trại tập trung Auschwitz.
Josef Mengele | |
---|---|
Mengele tại Auschwitz năm 1944 | |
Biệt danh | |
Sinh | (1911-03-16)16 tháng 3 năm 1911 Günzburg, Vương quốc Bayern, Đế quốc Đức |
Mất | 7 tháng 2 năm 1979(1979-02-07) (67 tuổi) Nam Đại Tây Dương, ngoài khơi Bertioga, Santos, São Paulo, Brazil |
Thuộc | Đức Quốc Xã |
Quân chủng | Schutzstaffel |
Năm tại ngũ | 1938—1945 |
Quân hàm | SS-Hauptsturmführer (Đại úy) |
Khen thưởng | Thập tự sắt hạng nhất Huy chương trọng thương hạng ba Huy chương vì sự nghiệp chăm sóc người Đức |
Vợ/chồng |
|
Con cái | Rolf Mengele |
Gia đình | Karl Mengele Walburga Hupfauer |
Chữ ký |
Giai đoạn tiền chiến, Mengele được trao hai bằng tiến sĩ ngành nhân chủng học và y học. Ông lần lượt gia nhập Đảng Quốc Xã vào năm 1937 rồi SS vào năm 1938. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Mengele được bổ nhiệm làm sĩ quan y tế cấp tiểu đoàn, trước khi chuyển đến làm việc tại Auschwitz vào năm 1943. Tại đây, Mengele được giao nhiệm vụ tuyển chọn tù nhân để thủ tiêu tại các phòng hơi ngạt.[lower-alpha 1] Ngoài hành vi trực tiếp giết người, Mengele còn thực hiện hàng loạt thí nghiệm trên cơ thể tù nhân nhằm phục vụ những nghiên cứu trong lĩnh vực di truyền học, tập trung chủ yếu vào các cặp sinh đôi mà không hề quan tâm đến sức khỏe cũng như sự an toàn của các nạn nhân.[3][4] Ngày 17 tháng 1 năm 1945, chỉ 10 ngày trước khi Hồng quân Liên Xô giải phóng trại Auschwitz, Mengele được di tản tới Trại tập trung Gross-Rosen cách đó 280 kilômét (170 dặm).
Sau chiến tranh, Mengele tìm cách đào tẩu tới Nam Mỹ. Thông qua Con đường chuột, ông chạy trốn bằng đường biển đến Argentina vào tháng 7 năm 1949. Ban đầu Mengele sống tại khu vực Buenos Aires, nhưng sau đó phải chạy tới Paraguay năm 1959 và Brasil năm 1960 trước sự truy lùng gắt gao của Tây Đức, Israel và những thợ săn quốc xã. Mặc cho những yêu cầu dẫn độ của chính phủ Tây Đức và các hoạt động bí mật của cơ quan tình báo Israel Mossad, Mengele vẫn không sa lưới trong suốt phần đời còn lại. Ông chết đuối do đột quỵ tại bãi biển Bertioga và được chôn cất dưới tên giả Wolfgang Gerhard. Năm 1985, hài cốt của Mengele được khai quật và nhận diện bằng phương pháp giám định pháp y.[2]