Kỷ Ordovic
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kỷ Ordovic (phiên âm tiếng Việt: Ocđôvic) là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ)[5] kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là kỷ Silur. Kỷ Ordovic, được đặt tên theo tên gọi của một bộ lạc người đã từng sinh sống tại vùng đất thuộc Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) ngày nay, có tên gọi là Ordovices (Ordowik). Nó được Charles Lapworth đưa ra năm 1879 để giải quyết các tranh cãi giữa những người theo trường phái của Adam Sedgwick với những người theo trường phái của Roderick Murchison (hai người này đã xếp đặt cùng các tầng đá ở miền bắc Wales vào các kỷ Cambri và Silur). Lapworth nhận ra rằng các hóa thạch động vật trong các địa tầng đang tranh cãi khi đó là khác hẳn với các hóa thạch tại các địa tầng thuộc kỷ Cambri cũng như thuộc kỷ Silur và ông cho rằng chúng phải được xếp đặt lại trong một kỷ riêng dành cho chính chúng.
Kỷ Ordovic 485.4–443.8 triệu năm trước đây | |
Nồng độ O 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 13.5 Vol %[1] (68 % so với giá trị hiện tại) |
Nồng độ CO 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 4200 ppm[2] (15 lần giá trị tiền công nghiệp) |
Nhiệt độ bề mặt nước biển trong giai đoạn này | Khoảng 16 °C[3] (2 °C trên mức hiện đại) |
Mực nước biển (cao hơn ngày nay) | 180 m; dâng cao tới 220 m trong Caradoc và tụt giảm mạnh xuống 140 m vào thời kỳ băng hà cuối kỷ Ordovic[4] |
Bản mẫu:Ordovician graphical timeline |
Trong khi việc thừa nhận kỷ Ordovic diễn ra tại Vương quốc Anh khá chậm chạp thì tại các khu vực khác trên thế giới người ta lại chấp nhận nó khá nhanh chóng. Nó nhận được sự phê chuẩn quốc tế vào năm 1906, khi nó được Đại hội Địa chất Quốc tế chấp nhận coi là một kỷ chính thức của đại Cổ Sinh.