Phiên vương quốc
From Wikipedia, the free encyclopedia
Phiên vương quốc (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt phiên quốc, hoặc thổ bang, là một quốc gia chư hầu[1] nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ, tương đương với Vương tước và Công tước ở châu Âu thời Trung cổ. Các phiên quốc trên Tiểu lục địa Ấn Độ đều trao quyền bảo hộ cho Đế quốc Anh. Mặc dù lịch sử của các phiên quốc xuất hiện khá sớm tại Ấn Độ, từ thế kỷ II trước công nguyên, nhưng dưới thời thuộc Anh, thuật ngữ Phiên vương quốc được sử dụng để chỉ cụ thể đến một Công quốc bán độc lập trên tiểu lục địa Ấn Độ trong thời kỳ Raj thuộc Anh, không được người Anh trực tiếp cai trị, những lãnh thổ này được cai trị thế tục bởi một hoàng tộc địa phương, tuân theo một hình thức cai trị gián tiếp đối với một số vấn đề. Chính phủ Ấn Độ thuộc Anh có quyền tối cao trong việc can thiệp vào công việc nội bộ của các phiên quốc[2], và ban hành các sắc lệnh áp dụng cho toàn tiểu lục địa Ấn Độ khi xét thấy cần thiết.
Vào thời điểm người Anh rút quân, trên tiểu lục địa Ấn Độ có 565 phiên quốc,[3] ngoài ra còn có hàng nghìn điền trang của các zamindari (chủ sở hữu đất) và jagir. Năm 1947, các phiên quốc bao phủ 40% diện tích và 23% dân số trước khi Ấn Độ độc lập.[4] Những phiên quốc quan trọng nhất sẽ có các Khu dân cư và đồn binh lớn của Anh, như: Nhà nước Hyderabad của các Nizam; Vương quốc Mysore và Travancore ở miền Nam, tiếp theo là Jammu & Kashmir, và Vương quốc Sikkim ở Himalaya; Nhà nước Indore ở miền Trung Ấn Độ. Khoảng 1/4 các phiên quốc được hưởng tư cách "salute state", người cai trị của phiên quốc được hưởng vinh dự chào mừng bằng súng đại bác trong các dịp nghi lễ.
Địa vị, quy mô và sự giàu có giữa các phiên quốc rất khác nhau; các phiên quốc hưởng quy chế chào mừng bằng 21 phát súng như Nhà nước Hyderabad và Jammu & Kashmir có diện tích lớn hơn 200.000 km2. Năm 1941, Hyderabad có dân số hơn 16 triệu người và Jammu & Kashmir có dân số hơn 4 triệu người. Trong khi đó có nhiều phiên quốc với diện tích rất khiêm tốn, như Lawa Thikana chỉ có 49 km2, với dân số chưa đến 3.000 người. Khoảng 200 phiên quốc có diện tích thậm chí nhỏ hơn 25 km2.[5][6]Kỷ nguyên của các phiên vương quốc kết thúc khi người Anh trao trả độc lập cho Tiểu lục địa Ấn Độ vào năm 1947; đến năm 1950, gần như tất cả các phiên quốc đã gia nhập Ấn Độ hoặc Pakistan.[7] Quá trình gia nhập chủ yếu diễn ra trong hoà bình, ngoại trừ các trường hợp của Jammu & Kashmir (người cai trị đã chọn độc lập, nhưng sau khi bị Pakistan xâm lược, họ đã quyết định gia nhập Ấn Độ),[8] Nhà nước Hyderabad (người cai trị đã tuyên bố độc lập vào năm 1948, nhưng chỉ một năm sau đó Ấn Độ đã tiến quân vào và Nizam cuối cùng đã phải gia nhập Ấn Độ), Nhà nước Junagadh (người cai trị chọn gia nhập Pakistan, nhưng bị Ấn Độ sáp nhập), [9] Hãn quốc Kalat (người cai trị tuyên bố độc lập năm 1947, nhưng năm 1948 thì gia nhập Pakistan).[10][11][12]
Theo các điều khoản gia nhập, những nhà cai trị của phiên vương quốc được nhận các khoản phụ cấp từ chính phủ Ấn Độ, và ban đầu vẫn được giữ lại các tước vị, đặc quyền và quyền tự chủ của họ thuộc các vấn đề nội bộ trong thời kỳ chuyển tiếp kéo dài đến năm 1956. Trong thời gian này, các phiên vương trước đây được hợp nhất thành các liên minh, và được đứng đầu bởi một cựu hoàng với chức danh "Rajpramukh" (thủ lĩnh cầm quyền), tương đương với thống đốc bang.[13] Năm 1956, vị trí của Rajpramukh bị bãi bỏ và các liên bang giải thể, các phiên quốc cũ trở thành một phần của các bang của Ấn Độ. Các phiên quốc gia nhập Pakistan vẫn giữ nguyên trạng cho đến khi quốc gia này ban hành hiến pháp mới vào năm 1956, hầu hết các phiên quốc trở thành một phần lãnh thổ của tỉnh Tây Pakistan; một số ít trong số các phiên quốc cũ vẫn giữ được quyền tự trị của mình cho đến năm 1969, sau đó cũng được sáp nhập hoàn toàn vào Pakistan. Chính phủ Ấn Độ bãi bỏ các trợ cấp cho phiên vương vào năm 1971, chính phủ Pakistan cũng bãi bỏ vào năm 1972.