Trận Kiev (1941)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Kiev năm 1941 là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno - Lutsk - Brody ở biên giới phía Tây Ukraina và Trận Uman ở miền Trung Ukraina. Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 30 tháng 9 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Nam được sự hỗ trợ từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức quốc xã đã bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu những lực lượng cơ bản của Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) đang phòng thủ khu vực Tây Nam mặt trận mà trọng điểm là khu phòng thủ Kiev (Киев). Đây là một trong những chiến quả quân sự lớn nhất của quân đội Đức trong toàn bộ Chiến tranh Xô-Đức cũng như trong lịch sử quân sự thế giới. Kết quả trận đánh là chiến thắng quyết định của Quân đội Đức Quốc xã[1] giúp họ ổn định được mặt trận của Cụm tập đoàn quân Nam để tập trung lực lượng cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm tiến hành chiến dịch "Typhoon" tấn công thẳng vào thủ đô Liên Xô với ý đồ kết thúc sớm cuộc chiến Xô-Đức.
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Trận Kiev | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||||
Kiev bị không quân Đức ném bom | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Liên Xô |
Đức România | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Joseph Stalin S.M. Budyonny, M. P. Kirponos, M. A. Burmistenko, V. I. Tupikov, M. I. Potapov, I. K. Bagramian |
Walther von Brauchitsch Gerd von Rundstedt, Heinz Guderian, Ewald von Kleist Walther von Reichenau Carl-Heinrich von Stülpnagel | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
5 tập đoàn quân với 627.000 quân gồm: 32 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh.[4] |
4 tập đoàn quân và 1 quân đoàn với 544.000 quân gồm: 25 sư đoàn bộ binh, 9 sư đoàn xe tăng[5] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
616.304 quân tử trận, bị bắt và mất tích 84.240 quân bị thương. |
26.856 chết 96.796 bị thương 5.008 mất tích Tổng cộng: 128.670 thương vong[6] | ||||||||
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thảm họa Kiev của Liên Xô được cho là đến từ sự chủ quan quá mức của lãnh tụ Iosif Vissarionovich Stalin[7]. Thất bại của Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam không những làm cho Liên Xô bị tổn thất rất lớn về binh lực và phương tiện mà còn khiến họ đánh mất một vùng công nghiệp phát triển, một vùng lúa mì trù phú. Ngoài ra, nguồn dầu mỏ từ Baku cũng bị uy hiếp, đường ra Biển Đen bị cắt đứt làm cho sức mạnh của Hải quân Liên Xô trên Địa Trung Hải bị suy giảm nghiêm trọng. Việc để mất Kiev cũng làm cho các cường quốc ở phương Tây thêm nghi ngờ vào khả năng giữ nước của Quân đội Liên Xô, ảnh hưởng đáng kể đến vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế. Mặc dù quân Đức thắng trận cũng phải chịu thiệt hại nặng nề[7], song với việc các Tập đoàn quân Liên Xô đã bị tiêu diệt cùng con đường rộng mở cho quân Đức tiến vào vùng Ukraina, chiến thắng Kiev được xem là một trong những thắng lợi lớn nhất của họ trong Chiến tranh thế giới thứ hai[2].
Trận đánh đẫm máu này có thể được xem là trận thắng vinh quang nhất của lãnh tụ Adolf Hitler nói riêng và Đức Quốc xã nói chung trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, và là thất bại thảm hại nhất của Quân đội Liên Xô thời đó.[7]