USS Tang (SS-306)
Tàu ngầm lớp Balao / From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Tang (SS-306) là một tàu ngầm lớp Balao của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá thuộc chi Acanthurus của họ Cá đuôi gai. Con tàu được đóng và hạ thủy vào năm 1943, đã phục vụ tới khi bị đánh chìm bởi chính ngư lôi của mình tại eo biển Đài Loan ngày 24 tháng 10 năm 1944.
USS Tang (SS-306) tại Xưởng Hải quân Mare Island, tháng 12 năm 1943 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Tang |
Đặt tên theo | Chi cá biển Acanthurus |
Đặt hàng | 15 tháng 12 năm 1941 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng Hải quân Mare Island, Vallejo, California[1] |
Đặt lườn | 15 tháng 1 năm 1943[2] |
Hạ thủy | 17 tháng 8 năm 1943[2] |
Người đỡ đầu | Bà Alix M. Pitre |
Nhập biên chế | 15 tháng 10 năm 1943[2] |
Xóa đăng bạ | 8 tháng 2 năm 1945 |
Số tàu | |
Danh hiệu và phong tặng | |
Số phận | Chìm sau khi trúng ngư lôi của chính mình tại Eo biển Đài Loan, 25 tháng 10 năm 1944[3] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu ngầm Balao[3] |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 10 in (95,05 m)[3] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m)[3] |
Mớn nước | 16 ft 10 in (5,13 m) ở mức tối đa[3] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 11.000 hải lý (13.000 mi; 20.000 km) khi nổi ở vận tốc 10 hải lý trên giờ (12 mph; 19 km/h)[2] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m)[2] nhưng lặn được 600 ft (180 m)[4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 68 thủy thủ[2] |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Tác chiến điện tử và nghi trang | Máy tính Xử lý Dữ liệu cho Ngư lôi (TDC) |
Vũ khí |
|
Trong quãng thời gian hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương, Tang đã bắn chìm 33 tàu với tổng tải trọng 116.454 tấn, trở thành con tàu có thành tích xuất sắc nhất trong toàn bộ lực lượng tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[5][6] Thuyền trưởng của Tang, Thiếu tá Richard O'Kane, cho rằng Ủy ban Đánh giá Lục quân-Hải quân (JANAC) đã ghi nhận sai thành tích của Tang với tổng số lượng tàu bị đánh chìm ít hơn thực tế. Vào năm 1980, JANAC chính thức sửa lại báo cáo của họ dựa trên những báo cáo tuần tra của Tang trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và kết luận Tang đã đánh chìm tổng cộng 33 tàu với tổng tải trọng là 116.454 tấn. Bản thân Thiếu tá Richard O'Kane được trao thưởng Huân chương Danh Dự vì thành tích đạt được trong hai trận chiến cuối cùng của tàu từ ngày 23 tới ngày 24 tháng 10 năm 1944.[7]
Tang bị đánh chìm trong đợt nghênh chiến cuối cùng do trúng một quả ngư lôi bị lỗi chạy vòng tròn được phóng trong loạt ngư lôi cuối cùng của tàu, và chìm ở độ sâu 180 ft (55 m).[8][6] 78 sĩ quan và thủy thủ tử trận và chín người sống sót được một tàu Nhật Bản cứu sống và bắt làm tù binh. Tang là trường hợp duy nhất thủy thủ đoàn đã sử dụng thiết bị sinh tồn - máy tái tạo khí Momsen Lung, để thoát khỏi chiếc tàu ngầm bị chìm.