Không lực Việt Nam Cộng hòa
From Wikipedia, the free encyclopedia
Không lực Việt Nam Cộng hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam Air Force, RVNAF) là lực lượng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên hiệp Pháp chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam sau khi rút khỏi Việt Nam, sau đó dần được bổ sung cải tiến bằng những phi cơ tối tân, hiện đại do Hoa Kỳ cung cấp, trở nên ngày càng mạnh mẽ về số lượng cùng hỏa lực trên không. Không quân đã đóng vai trò quan trọng trong việc yểm trợ Bộ binh Việt Nam Cộng hòa trên mặt đất.
Không lực Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Republic of Vietnam Air Force | |
Phù hiệu | |
Hoạt động | 1951 - 1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Quân chủng | Không quân |
Phân loại | Yểm trợ - Tác chiến |
Quy mô | - 63.000 nhân sự (Tháng 6 năm 1974)[1] - 2.750 phi cơ[2] |
Bộ phận của | Bộ Tổng Tham mưu |
Bộ chỉ huy | Tân Sơn Nhất, Sài Gòn |
Tên khác | Phi Dũng |
Khẩu hiệu | Tổ quốc - Không gian |
Linh vật | Long vân phi dũng |
Lễ kỷ niệm | Ngày 1 tháng 7 |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | - Nguyễn Khánh - Trần Văn Hổ - Nguyễn Xuân Vinh - Huỳnh Hữu Hiền - Nguyễn Cao Kỳ - Trần Văn Minh |
Huy hiệu | |
Dấu tròn | |
Cờ đuôi | |
Quân kỳ | |
Phi cơ sử dụng | |
Cường kích | MD 315 Flamant, T-28 A-1, A-37 AC-47, AC-119G/K |
Máy bay ném bom | B-57 Canberra |
Tác chiến điện tử | EC-47 |
Tiêm kích | F8F Bearcat, F-5A/B/C/E |
Tuần tra | RC-3 |
Trinh sát | RF-5A, MS 500 Criquet O-1 Bird Dog, O-2 Skymaster U-6, U-17 |
Huấn luyện | PL-2, T-6, T-28 T-41, T-37, H-13 |
Vận tải | MD 315 Flamant, C-45 Aero Commander, C-47 DC-6, C-7 Caribou C-119, C-123 C-130, Alouette II, Alouette III H-19, UH-1 H-34, CH-47 |
Vào năm 1972, Không lực Việt Nam Cộng hòa là lực lượng không quân lớn thứ 6 trên thế giới về số lượng máy bay, chỉ sau Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp và Tây Đức.[3]
Lúc cao điểm Không lực Việt Nam Cộng hòa có tới trên 2.300 máy bay và trực thăng các loại, tức là còn nhiều máy bay hơn không quân các cường quốc đương thời như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản... Tuy nhiên khi so sánh với Không quân Hoa Kỳ thì Không lực Việt Nam Cộng hòa chỉ có Không quân chiến thuật để hỗ trợ tiền tuyến mà không có Không quân chiến lược (cụ thể là pháo đài bay B-52). Đồng thời lực lượng này bị Hoa Kỳ kiểm soát và khống chế việc chỉ huy các chiến dịch, khiến phi cơ chỉ có thể hoạt động giới hạn tại Nam Việt Nam, không được phép thực hiện những phi vụ oanh tạc sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam cũng như 2 nước láng giềng là Lào và Campuchia. Sau khi để mất các đảo trong Hải chiến Hoàng Sa về phía Trung Quốc, Nguyễn Văn Thiệu đã lên kế hoạch huy động không lực Việt Nam Cộng hòa oanh tạc Hoàng Sa để chiếm lại nhưng sau đó bị hủy bỏ do phía Mỹ ngăn chặn. Trong Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với sự sụp đổ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng không quân cũng chính thức tan rã.
Trong số 2.750 máy bay và trực thăng các loại của Không lực Việt Nam Cộng hòa (toàn bộ do Hoa Kỳ trang bị), chỉ có 308 chiếc sống sót qua chiến tranh (240 chiếc bay thoát sang Thái Lan hoặc ra tàu sân bay Mỹ, 68 chiếc được gửi về Mỹ,[4] hơn 2.440 chiếc còn lại đã bị bắn rơi, phá hủy hoặc bị tịch thu. Trong số đó, 877 chiếc máy bay và trực thăng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu vào năm 1975.[5]