M4 Sherman
xe tăng hạng trung của Hoa Kỳ / From Wikipedia, the free encyclopedia
M4 Sherman, tên chính thức là Xe tăng hạng trung M4 (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng rãi nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. M4 Sherman được đánh giá là có sự cơ động cao, đáng tin cậy, có giá thành khá thấp để sản xuất hàng loạt. Hơn mười nghìn xe tăng đã được cung cấp cho khối Thịnh vượng chung Anh và Liên Xô qua Chương trình Lend-Lease. Xe tăng được người Anh đặt theo tên của vị tướng William T. Sherman trong Cuộc nội chiến Hoa Kỳ.[6]
Xe tăng Hạng trung, M4 | |
---|---|
Xe tăng Sherman M4A3E4(76) VVSS, được nâng cấp và phát triển sau chiến tranh dựa trên mẫu M4A3(75) VVSS, trong một sự kiện được tổ chức tại Lincolnshire, Anh, 28 tháng 8 năm 2021. | |
Loại | Xe tăng hạng trung |
Nơi chế tạo | Hoa Kỳ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1942–1957 (Hoa Kỳ) |
Sử dụng bởi | Hoa Kỳ, và nhiều quốc gia khác (xem Hoạt động tại các nước khác) |
Trận |
|
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Cục Quân khí Lục quân Hoa Kỳ |
Năm thiết kế | 1940 |
Nhà sản xuất |
|
Giá thành | 44.556–64.455 USD theo giá năm 1945, tùy thuộc vào từng phiên bản xe (607.861–879.336 USD theo giá năm 2017)[1] |
Giai đoạn sản xuất | Tháng 9 năm 1941 (nguyên mẫu thử nghiệm) Tháng 2 năm 1942 – tháng 7 năm 1945 |
Số lượng chế tạo | 49.234, không tính nguyên mẫu[2] |
Các biến thể | Xem Các biến thể và Hoạt động sau Thế chiến II |
Thông số | |
Khối lượng | 66.800–84.000 lb (30,3–38,1 tấn) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Chiều dài | 19 ft 2 in–20 ft 7 in (5,84–6,27 m) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Chiều rộng | 8 ft 7 in (2,62 m) đến 9 ft 10 in (3,00 m) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Chiều cao | 9 ft 0 in–9 ft 9 in (2,74–2,97 m) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Kíp chiến đấu | 5 (trưởng xe, pháo thủ, nạp đạn viên, tài xế, phụ lái/xạ thủ súng máy phụ) |
Phương tiện bọc thép | 12,7 đến 177,8 mm (0,50 đến 7,00 in) tùy thuộc vào vị trí và từng phiên bản xe[3] |
Vũ khí chính | Pháo 75 mm M3 (90–104 viên đạn) hoặc Pháo 76 mm M1A1, M1A1C, hoặc M1A2 (71 viên đạn) hoặc 105 mm M4 (66 viên đạn)[3] |
Vũ khí phụ | Súng máy Browning M2HB (300–600 viên đạn), 2 x Súng máy Browning M1919A4 (6,000–6,750 viên đạn)[3] |
Động cơ | Phiên bản M4 và M4A1: Động cơ xăng Continental hướng tâm R975-C1 hoặc -C4 9 xylanh cùng bộ tản nhiệt, 350-400 mã lực (261-298 kW) tại tần số vòng 2.400 vòng/phút[3]
Phiên bản M4A2: Động cơ diesel kép nội tuyến GM 6046; 375 hp (280 kW) tại tần số vòng 2.100 vòng/phút[3] Phiên bản M4A3: Động cơ xăng Ford GAA V8; 450 hp (336 kW) tại tần số vòng 2.600 vòng/phút[3] Phiên bản M4A4: Động cơ xăng Chrysler A57 ~(30 xylanh); 370 hp (276 kW) tại tần số vòng 2.400 vòng/phút[3] Phiên bản M4A6: Động cơ diesel hướng tâm Caterpillar D200A 9 xylanh cùng bộ tản nhiệt; 450 hp (336 kW) tại tần số vòng 2.400 vòng/phút[3] |
Công suất/trọng lượng | 10,46–13,49 mã lực/tấn thiếu (8.60–11.09 kW/t) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Hệ truyền động | Bộ truyền động đồng bộ bằng tay Spicer, 5 số tiến và 1 số lùi [4] |
Hệ thống treo | Hệ thống treo lò xo xoắn thẳng đứng (VVSS) hoặc treo lò xo xoắn ngang (HVSS) |
Sức chứa nhiên liệu | 138–175 gal Mỹ (520–660 l; 115–146 gal Anh) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Tầm hoạt động | 100–150 mi (160–240 km) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[3] |
Tốc độ | 22–30 mph (35–48 km/h) tùy thuộc vào từng phiên bản xe[5][3] |
M4 Sherman được phát triển dựa trên những kinh nghiệm từ Xe tăng Hạng trung M3,[lower-alpha 1] với sự thay đổi về trang bị vũ khí và vị trí đặt pháo. Thiểt kế của M4 Sherman gắn pháo 75 mm lên một tháp pháo xoay độc lập, có giáp mặt trước khá tốt, gần bằng so với T-34 của Liên Xô. Về hỏa lực thì pháo 75mm M3 có sức công phá ngang ngửa với pháo 76mm F-34 của dòng T-34-76, cũng như pháo 76mm M1 có sức xuyên phá gần bằng với pháo 85mm D-5T của dòng T-34-85, tuy nhiên đạn nổ HE của pháo M1 kém hơn hẳn HE của D-5T vì cỡ nòng nhỏ hơn, nhưng bù lại thì Sherman có thêm súng máy trên nóc để hỗ trợ phòng không và chống bộ binh. Về độ cơ động, Sherman có động cơ với công suất khá tốt (từ 300 đến 400 mã lực đối với bản M4, M4A1, M4A2 và M4A4, 450 mã lực đối với bản M4A3) giúp xe có thể đạt vận tốc lên đến 48 km/h và tầm hoạt động khoảng 240 km.[7] Những yếu tố này đã giúp Sherman vượt trội hơn các loại xe tăng hạng nhẹ và hạng trung của Đức được trang bị trong giai đoạn 1939–42. M4 là loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, với 49.234 chiếc được sản xuất với nhiều biến thể khác nhau, chỉ đứng sau T-34.[lower-alpha 2] Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xe tăng Sherman là một trong những xe tăng xung kích chủ chốt của Đồng minh phương Tây sau năm 1942.[9]
Khi xe tăng M4 thực chiến lần đầu tiên ở Bắc Phi tại Trận El Alamein lần hai vào năm 1942, nó tỏ ra vượt trội hơn phần lớn các loại xe tăng hạng trung cùng thời của Đức và Ý.[10] Vì lý do này, Quân đội Hoa Kỳ tin rằng M4 đã đủ để giúp giành chiến thắng trong cuộc chiến, và họ ít quan tâm hơn trong việc phát triển các mẫu xe tăng mới. Những hạn chế về hậu cần và vận chuyển, như đường xá, bến cảng và cầu, cũng làm phức tạp việc phát triển một loại xe có năng lực hơn nhưng nặng hơn.[11][lower-alpha 3] Các tiểu đoàn Pháo Tự hành Chống tăng được trang bị xe dựa trên khung của M4, nhưng có tháp pháo hở nóc và được lắp đặt pháo chống tăng mạnh mẽ hơn. Thậm chí đến năm 1944, hầu hết các phiên bản M4 vẫn được trang bị pháo 75 mm đa dụng.[12] Tại thời điểm đó, dù M4 đã bị các loại xe tăng hạng trung và hạng nặng của Đức vượt trội về giáp và hỏa lực, nhưng chúng vẫn được coi là hiệu quả với độ tin cậy cao, dễ sửa chữa, hậu cần tốt hơn và sự hỗ trợ lớn của các đơn vị máy bay chiến đấu, ném bom và pháo.[13] Một số phiên bản Sherman được lắp đặt pháo M1 76 mm, được tái trang bị lại bằng khẩu pháo chống tăng Ordnance QF 17 pounder cỡ nòng 76,2 mm mạnh mẽ hơn của người Anh (Sherman Firefly) hoặc được lắp đặt lựu pháo 105 mm để hoạt động với vai trò xe thiết giáp hỗ trợ bộ binh.
Việc sản xuất dễ dàng đã cho phép M4 được sản xuất với số lượng lớn và dễ dàng sửa chữa các xe bị bắn hỏng trong chiến đấu để quay trở lại chiến trường. Những yếu tố này kết hợp lại đã tạo ra ưu thế lớn về quân số cho Đồng minh trong hầu hết các trận chiến, với nhiều sư đoàn bộ binh được trang bị M4 và pháo tự hành chống tăng.[lower-alpha 4]
Sau Chiến tranh Thế giới lần hai, Sherman, đặc biệt là những phiên bản cải tiến và nâng cấp, tiếc tục được sử dụng bởi nhiều quốc gia trong các cuộc xung đột khác trên thế giới như Lực lượng Liên Hợp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, Cuộc xung đột Ả Rập-Israel và Chiến tranh Ấn Độ – Pakistan 1965.[15]