Evarts (lớp tàu hộ tống khu trục)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp tàu hộ tống khu trục Evarts là những tàu hộ tống khu trục được Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn 1942 – 1944. Chúng đã phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai như những tàu hộ tống vận tải và phòng không. Chúng còn được gọi là GMT hay lớp DE "short hull" (lườn ngắn), với từ GMT: General Motors Tandem Diesel (động cơ diesel GM đặt nối tiếp). USS Evarts, chiếc dẫn đầu của lớp, được hạ thủy vào ngày 7 tháng 12 năm 1942; và chiếc đầu tiên hoàn tất được nhập biên chế tại Xưởng đóng tàu Hải quân Boston vào ngày 20 tháng 1 năm 1943 và được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh theo thỏa thuận Chương trình Cho thuê-cho mượn, trở thành chiếc HMS Bayntun.
USS Evarts (DE-5), chiếc dẫn đầu của lớp, đang hoạt động trên biển vào ngày 19 tháng 8 năm 1944 | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp tàu hộ tống khu trục Evarts |
Xưởng đóng tàu |
|
Bên khai thác | |
Lớp trước | Không có |
Lớp sau | Lớp Buckley |
Dự tính | 105 |
Hoàn thành | 97 |
Hủy bỏ | 8 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu hộ tống khu trục |
Trọng tải choán nước | Đầy tải: 1.360 tấn (1.339 tấn Anh) |
Chiều dài | Tổng thể: 88,2 m (289 ft 4 in) |
Sườn ngang | 10,7 m (35 ft 1 in) |
Mớn nước | Đầy tải: 2,7 m (8 ft 10 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 19 hải lý trên giờ (35 km/h) (nhiều chiếc có thể đạt 21 – 22 hải lý trên giờ) |
Tầm xa | 5.000 dặm (8.000 km) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
Những chiếc lớp Evarts được vận hành bởi động cơ diesel điện với bốn động cơ diesel được đặt nối tiếp nhau với những máy phát điện. Các con tàu được tiền chế tại nhiều nhà máy khác nhau khắp Hoa Kỳ, và các bộ phận được kết hợp với nhau tại xưởng tàu, nơi chúng được hàn lại trên ụ tàu. Thiết kế nguyên thủy dự định trang bị tám động cơ để đạt được tốc độ 24 hải lý trên giờ (44 km/h), nhưng việc phải dành ưu tiên nguồn lực cho các chương trình khác khiến các con tàu chỉ được trang bị bốn động cơ, nên có một lườn tàu ngắn hơn.[1]
Tổng cộng có 105 chiếc lớp Evarts được đặt hàng, nhưng 8 chiếc sau đó bị hủy bỏ. Hải quân Hoa Kỳ đưa vào biên chế 65 chiếc trong khi 32 chiếc khác lớp Evarts được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh. Tại Anh chúng được xếp lớp như những tàu frigate và được đặt tên theo các hạm trưởng thời Chiến tranh Napoleon, là một phần của lớp Captain cùng với 46 chiếc thuộc lớp Buckley.